f) Hoạt động mở rộng hợp tác quốc tế với các ngân hàng nước ngoài hoạt động trong và ngoài nước còn nhiều hạn chế
Việc mở cửa và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam cho phép Vietcombank được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi công bằng và bình đẳng hơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho Vietcombank thâm nhập thị trường cũng như đón nhận những cơ hội hợp tác lớn từ phía các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hoặc các ngân hàng ở nước ngoài. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh đó, trong những năm qua hoạt động hợp tác quốc tế của Vietcombank vẫn bộc lộ một số yếu điểm cần khắc phục và đẩy mạnh hơn nữa.
+ Chưa chủ động khai thác và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tăng cường mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài trên khắp thế giới nhằm phục vụ cho hoạt động thanh toán, đầu tư, tài trợ vốn…
+ Chưa triển khai mạnh mẽ các chương trình kết nối hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp của Việt Nam và doanh nghiệp các nước, qua đó thúc đẩy mối quan hệ hợp tác đầu tư là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng.
+ Chưa thể hiện rõ ràng chiến lược tổng thể trong hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng.
3.2.3.3. Thách thức chủ yếu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị của Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2030, nghiên cứu hoàn chỉnh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và bổ sung nhiều đạo luật về phát triển kinh tế, Vietcombank đứng trước những thách thức chủ yếu cần vượt qua như sau:
- Thể chế kinh tế trong đó đặc biệt là những chính sách đối với phát triển NHTM đang trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện và cải tiến. Trong tương lai sẽ có sự điều chỉnh đáng kể về các chính sách kinh tế để doanh nghiệp phát triển cũng như để cho các NHTM phát triển nhưng Vietcombank cũng như các NHTM khác ko thể biết trước hết để lượng định các ứng biến của mình một cách kịp thời phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả quản trị của Vietcombank.
Có thể bạn quan tâm!
- Nợ Xấu, Nợ Quá Hạn Của Vietcombank Giai Đoạn 2015-2020
- Chỉ Số Tương Quan Giữa Hiệu Quả Quản Trị Và Hiệu Quả Kinh Doanh Của Vietcombank Giai Đoạn 2015-2020
- Nâng cao hiệu quả quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 15
- Một Số Chỉ Tiêu Kinh Tế Của Việt Nam Giai Đoạn 2021-2030
- Giải Pháp 2: Phát Triển Nhân Lực Chất Lượng Cao Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
- Giải Pháp 4: Mở Rộng Hợp Tác Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
- Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thịnh hành các xu thế phát triển các nền tảng công nghệ blockchain, chuyển đổi số, dữ liệu lớn mà nếu một quốc gia không chuẩn bị đầy đủ các tiền đề để doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội này thì các doanh nghiệp trong đó có Vietcombank sẽ bị lúng túng trước những biến động của thế giới.
- Thực tế chỉ ra rằng thông tin (số liệu) của các NHTM không chỉ chưa được công khai chính thức một cách minh bạch mà còn có cả việc cập nhật thông tin (số liệu) của các ngân hàng trong cổng thông tin điện tử quốc gia để đáp ứng đầy đủ các thông tin để thực hiện quản trị các NHTM.
- Năng lực của những nhà quản trị cũng như của đội ngũ cán bộ nhân viên của các ngân hàng nói chung cũng như của Vietcombank đều có tình trạng không đáp ứng được yêu cầu của xu thế đổi mới quản trị đối với NHTM trên bình diện quốc tế.
Tiểu kết chương 3
− Sau khi trình bày Vietcombank trong hệ thống NHTM Việt Nam tác giả đã tập trung phân tích đặc điểm tiến trình phát triển của Vietcombank trong quá trình vận động và phát triển kinh doanh của ngân hàng này. Tác giả xem xét hiệu quả quản trị của Vietcombank gắn với hiệu quả kinh doanh của ngân hàng này trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
− Tác giả phân tích hiệu quả quản trị của Vietcombank theo hai giai đoạn 2015-2017 và 2018-2020, việc phân tích đã chỉ ra rằng sự cần thiết cho Vietcombank phải đổi mới mô hình quản trị, điều đó chứng minh ở giai đoạn 2015-2017 hiệu quả kinh doanh của Vietcombank không ổn định, tuy có tăng nhưng chậm và không có sự tăng trưởng mạnh mẽ so với tiềm lực của ngân hàng cụ thể như tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản chưa cao, tỷ lệ lãi cận biên chưa tốt cho thấy khả năng sử dụng nguồn vốn huy động vào hoạt động cấp tín dụng chưa thực sự hiệu quả, sang giai đoạn 2018- 2020 dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà thịnh hành của trí tuệ nhân tạo, công nghệ blockchain, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, chuyển đổi số lại tiếp tục đòi hỏi Vietcombank phải đổi mới quản trị để nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng này. Đồng thời trong quá trình đánh giá thực trạng hiệu quả quản trị của Vietcombank tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thành công cũng như của hạn chế để tạo thêm căn cứ cho việc đề xuất định hướng và giải pháp ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Căn cứ vào những nguyên nhân của hạn chế trình bày trong chương 3 và bám sát những vấn đề lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị ngân hàng, tác giả kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị của Vietcombank trong thời gian tới với các nội dung sau:
4.1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của nó đến phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
4.1.1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói rằng, trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực có những chuyển biến hết sức nhanh chóng và sâu sắc với các thuận lợi và khó khăn đan xen. Từ nay đến năm 2030, kinh doanh của hệ thống ngân hàng ngoài sự chi phối tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế còn chịu ảnh hưởng bất lợi cũng từ hội nhập kinh tế quốc tế mà trong đó tiêu biểu phải nhắc tới đó là xung đột thương mại giữa các nước lớn vẫn sẽ tiếp diễn, nhiều yếu tố khó lường nổi lên làm tăng tính bất trắc trong môi trường kinh tế toàn cầu như cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn như Mỹ - Trung diễn ra quyết liệt, rủi ro trong tài chính tiền tệ quốc tế, sự biến động phức tạp giá hàng hóa cơ bản, sức mua của dân cư bị giảm sút trong bối cảnh giá lương thực và xăng dầu tăng vọt, bất ổn chính trị xã hội gia tăng, xung đột chiến tranh xảy ra cục bộ ở nơi này nơi kia, đặc biệt là chủ nghĩa dân túy mà nếu không có sự kiểm soát tốt có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội ở các nước này, tác động đến ổn định chính trị toàn cầu.
Cạnh tranh chiến lược về kinh tế quyết liệt và gay gắt hơn. Mỹ tiếp tục đẩy mạnh cạnh tranh, kiềm chế Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực trong đó cạnh tranh kinh tế, thương mại là trọng tâm. Xu hướng đòi hỏi định hình lại các luật chơi khu vực và toàn cầu cũng như nhu cầu cải cách các định chế quốc tế như World Bank, Liên Hiệp
Quốc... đang đặt ra những thách thức rất lớn đối với các thể chế đa phương trong vai trò trung tâm của hệ thống thương mại đa phương với các chức năng chính như giám sát thực thi đa phương và giải quyết tranh chấp.
Trong khi đó, việc toàn cầu hóa, liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực tiếp tục được điều chỉnh. Mỹ chủ động thúc đẩy tạo dựng luật chơi thương mại mới thông qua hình thành mạng lưới các thỏa thuận Hiệp định thương mại tự do ( FTA) song phương hoặc nhiều bên mà Mỹ có vai trò trung tâm. Các nước lớn cũng tranh thủ tập hợp lực lượng thông qua liên kết, kết nối kinh tế. Đàm phán FTA được đẩy mạnh trên nhiều tầng nấc, hình thái đa dạng, trong đó việc hình thành các FTA khu vực và liên khu vực tiếp tục là trọng tâm xu thế FTA. Cho đến ngày 31/12/2021, Việt Nam đã chính thức ký kết và đi vào hiệu lực 15 Hiệp định thương mại tự do, việc đàm phán và ký kết thành công nhiều FTA với các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội về tăng trưởng kinh tế, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, đồng thời tạo ra những động lực đổi mới trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế, minh bạch hóa, từ đó xây dựng môi trường đầu tư thương mại ngày càng thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, hội nhập ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng và đưa quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác phát triển theo chiều sâu, tạo lợi thế đan xen và đạt được nhiều kết quả tích cực và khá toàn diện. Với cơ cấu ngành ngân hàng hiện nay bao gồm có sự tham gia của rất nhiều các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh đang hoạt động tại Việt Nam đã tạo ra nhiều cơ hội và cũng không ít những thách thức đối với Vietcombank nói riêng và với các NHTM ở Việt Nam nói chung. Cụ thể là:
Thứ nhất, xét về cơ hội, có thể nói tiến trình hội nhập kinh tế và lĩnh vực ngân hàng đã tạo nền tảng quan trọng giúp Việt Nam thu hút một dòng vốn nước ngoài lớn vào nền kinh tế nói chung và ngành dịch vụ tài chính nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng nói chung và Vietcombank nói riêng nâng cao tính thanh khoản và tiếp cận các nguồn vốn có chi phí thấp trên thế giới; mở rộng liên kết quốc tế, mở rộng thị trường cả ở trong nước và nước ngoài giúp Vietcombank nâng cao vị
thế trong hệ thống NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó là việc gia tăng cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam, giúp thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc quản trị NHTM, chuyển giao kiến thức, năng lực điều hành và quản lý cấp cao; kế thừa các mô hình quản trị hiện đại đã được áp dụng trên thế giới vào việc đổi mới quản trị Vietcombank. Đồng thời, trong thời gian tới các dòng FDI sẽ thay đổi và vào Việt Nam ngày càng nhiều, do đó mà vốn đối ứng gia tăng nhanh chóng cả về quy mô và tốc độ sẽ tạo ra cơ hội rất lớn cho Vietcombank. Các yếu tố tích cực này là đòn bảy quan trọng để Vietcombank phát triển hiệu quả và phù hợp với các thông lệ trong khu vực và quốc tế.
Thứ hai, xét về thách thức đối với Vietcombank cũng như với các NHTM Việt Nam khác khi có sự tham gia khai thác thị trường của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các ngân hàng Việt Nam tham gia tại thị trường nước ngoài do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại thì có thể được thể hiện qua các vấn đề sau: đầu tiên phải nhắc đến đó chính là từ sự khác biệt về thể chế kinh tế, đặc biệt là về chính sách phát triển ngân hàng giữa Việt Nam và các nước đòi hỏi mỗi NHTM trong đó có Vietcombank phải tìm ra cách thức hòa đồng với các ngân hàng trên thế giới trong việc giao dịch tiền tệ, đầu tư với các ngân hàng quốc tế; tiếp đến là trong thời gian sắp tới hoạt độngt tiền gửi và tiền vay của các ngân hàng Việt Nam sẽ còn nhiều hạn chế, điển hình như trường hợp của đại dịch Covid-19 đã xảy ra từ cuối năm 2019 và đến nay vẫn tiếp tục diễn biến khiến nhiều doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường và rất nhiều triệu lao động mất việc làm, do đó làm giảm sút nghiêm trọng đối với các giao dịch tiền tệ của các NHTM trong khi Nhà nước thì giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% dành ra để hỗ trợ người lao động và người dân.
Khi mở cửa thị trường ngân hàng, là một thành viên kết nạp sau của WTO, Việt Nam đã mở cửa lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, tài chính tương đối cao so với các nước có trình độ phát triển chung trong khu vực và thế giới. Tới nay, các ngân hàng nước ngoài được phép hiện diện tại Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh với
số vốn góp nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Đây là yếu tố đòn bẩy quan trọng thúc đẩy Vietcombank nâng cao hiệu quả quản trị điều hành để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đồng thời học hỏi kinh nghiệm, nắm bắt thông tin và tiếp cận kỹ thuật công nghệ hiện đại ứng dụng trong ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng không ngừng được hoàn thiện, đổi mới theo hướng thực thi đầy đủ các nghĩa vụ cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đối xử tối huệ quốc và các nghĩa vụ bảo hộ đầu tư cơ bản khác. Những việc làm này giúp Vietcombank buộc phải thực hiện theo xu hướng quản trị quốc tế và cam kết mạnh mẽ trong việc xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch và công bằng cho cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
4.1.2. Bối cảnh trong nước
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là diễn biến phức tạp, nhanh chóng của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và đại dịch Covid-19, nhưng đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện; tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên. Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể, tăng độ mở nền kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị, xã hội ổn định, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển
biến tích cực; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh; tiếp tục tận dụng cơ hội cơ cấu dân số vàng; thành quả xây dựng nông thôn mới được củng cố, đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 đến 2030 (chi tiết tại Phụ lục số 12) với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại. Theo chiến lược phát triển, nền kinh tế Việt Nam dự kiến tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD. Dân số Việt Nam dự báo sẽ đạt 104 triệu dân vào năm 2030 trong đó dân cư khu vực nông thôn chiếm khoảng 70%, điều này có nghĩa là nhu cầu vốn để phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn vẫn là rất lớn với mức tăng trưởng tín dụng hàng năm dự báo khoảng 13% đến 15%.
Bên cạnh đó sự gia tăng dân số khiến áp lực quy hoạch phát triển hạ tầng giaothông là rất lớn với tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 dự kiến là gần 1,5 triệu tỷ đồng, trong đó dự kiến sử dụng vốn vay từ ngân hàng chiếm khoảng trên 80%. Cùng với sự tăng dân số và tốc độ đô thị hóa, nhu cầu tín dụng về nhà ở là khá lớn với chính sách tín dụng của nhà nước ưu đãi cho phân khúc nhà ở giá trung bình và giá rẻ sẽ tiếp tục là điểm sáng nhất đối với tín dụng bất động sản. Con số dự báo trong chiến lược phát triển nhà ở đến 2030 đã chỉ ra rằng, tốc độ đô thị hóa ở mức khoảng 40% hiện nay sẽ tăng lên khoảng 50% vào năm 2030. Trong 10 năm tới, thị trường bất động sản vẫn có rất nhiều tiềm năng để phát triển.
Công tác hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đã được triển khai phù hợp với các định hướng lớn và chủ trương của Đảng, Chính phủ, tuân thủ nguyên tắc: “Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững