Nội Dung, Phương Thức, Chủ Thể Và Sự Cần Thiết Phát Huy Giá Trị Gia Đình Truyền Thống Trong Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Ở Vùng Đồng Bằng Sông Hồng


nghiên cứu, tuyên truyền để xây dựng GĐVH vừa đảm bảo những tiêu chuẩn, tiêu chí chung theo quy định của Nhà nước, vừa đảm bảo kế thừa, phát huy yếu tố đặc thù, truyền thống tốt đẹp của từng địa phương, vùng miền [19]; [84].

Từ những quan niệm về GĐVH, những tiêu chuẩn, tiêu chí của GĐVH nêu trên, tác giả luận án nhận thấy cần thống nhất khái niệm: Gia đình văn hóa là gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, đoàn kết với xóm giềng và làm tốt nghĩa vụ công dân.

Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, mục tiêu xây dựng GĐVH theo tiêu chí ít con (1 đến 2 con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; Để cho mỗi gia đình trở thành tế bào phát triển lành mạnh, đủ sức chống lại sự tấn công của tiêu cực xã hội và những tác động xấu của các yếu tố ngoài gia đình thì xây dựng GĐVH là “kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển” [4].

Tóm lại, có thể thấy GĐVH hiện nay không phải là phủ định sạch trơn kiểu GĐTT cũ mà nó chính là sự kế thừa, nối tiếp và phát triển gia đình trong điều kiện xã hội mới. Gia đình đó mang đậm tính nhân văn, nhân bản, đề cao giá trị đạo đức tốt đẹp, có lối sống, nếp sống văn hóa mới phù hợp với sự phát triển của thời đại. GĐVH phải là môi trường giúp con người hoàn thiện nhân cách, thực hiện tốt các chức năng để phát triển mọi mặt của cá nhân các thành viên cũng như gia đình nhằm đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

Như vậy, gia đình văn hóa là một kiểu gia đình mới được hình thành trên cơ sở giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp của GĐTT, của văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ, nhân văn của nhân loại trong thời đại mới. Gia đình đó phải tạo ra được môi trường tốt để các thành viên trong gia đình có điều kiện phát triển toàn diện, hài hòa cả vật chất lẫn tinh thần và để gia đình thực sự là tế bào mạnh khỏe, thúc đẩy phát triển xã hội.

Thông qua quan niệm và các tiêu chí công nhận về GĐVH như trình bày ở trên, theo tác giả, GĐVH bao gồm các đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, GĐVH là sản phẩm của xã hội mới khi nước Việt Nam giành được độc lập và lựa chọn phát triển đất nước theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, GĐVH thường là gia đình có quy mô nhỏ (gia đình hạt nhân, gia đình hai thế hệ), ít con và kết hôn theo quy định của pháp luật.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Thứ ba, GĐVH gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, nơi cư trú, tích cực tham gia các phong trào thi đua.

Thứ tư, GĐVH là sự kết hợp giữa những giá trị tốt đẹp của GĐTT với những yếu tố tiến bộ, nhân văn của thời đại.

Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 6

Thứ năm, GĐVH là gia đình no ấm, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, bền vững.

2.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC, CHỦ THỂ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

2.2.1. Nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

2.2.1.1. Nội dung những giá trị gia đình truyền thống cần phát huy trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng

Thứ nhất: Giá trị đạo đức của gia đình truyền thống

Giá trị đạo đức của GĐTT là những chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc đạo đức tốt đẹp được hình thành, phát triển cùng với sự hình thành, phát triển của GĐTT, có tính tương đối ổn định, được lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong gia đình. Nội dung giá trị đạo đức của GĐTT được thể hiện trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như:

Đối với vợ chồng là yêu thương, tình nghĩa, thủy chung và hòa thuận.

Trong GĐTT, sự yêu thương, tình nghĩa, thủy chung, hòa thuận vừa là phẩm chất đạo đức, vừa là yêu cầu, nguyên tắc, chuẩn mực nổi bật trong mối quan hệ vợ chồng. Mặc dù trong xã hội truyền thống, hôn nhân chủ yếu do sự sắp đặt của gia đình, nhưng không vì thế mà mối quan hệ vợ chồng mất đi tình cảm, tình yêu thương, thủy chung và hòa thuận. Gia đình sống có hạnh phúc, tình nghĩa hay không thể hiện ở chỗ vợ chồng sống có thủy chung, hòa thuận, đồng lòng với nhau không. Thủy chung là phẩm chất đạo đức được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ vợ chồng, được xã hội coi trọng và đề cao. Thủy chung không chỉ là biểu hiện của tình yêu trước sau như một, mà còn là sự đồng cảm, kính trọng, tin yêu, hòa thuận, nhường nhịn lẫn nhau giữa vợ với chồng [154].


Tình nghĩa vợ chồng là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng, được nảy sinh từ chính cuộc sống, từ sự chung lưng làm ăn, chung vai gánh trách nhiệm gia đình. Tình nghĩa, thủy chung, yêu thương, hòa thuận giúp vợ chồng cùng nhau vượt qua những khó khăn, vất vả vươn lên trong cuộc sống. Đây chính là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cần phát huy trong mỗi gia đình, trong quá trình xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay. Tuy nhiên, cần phải chọn lọc trong quá trình phát huy theo hướng “gạn đục, khơi trong” những giá trị tích cực và loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp của GĐTT (tình nghĩa, thủy chung theo kiểu trói buộc người phụ nữ, xem nhẹ vai trò, địa vị của người phụ nữ…).

Đối với cha mẹ - con cái là từ, hiếu, đức hy sinh.

Từ, hiếu, đức hy sinh là những phẩm chất đạo đức, yêu cầu, nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong GĐTT. Cha mẹ yêu thương, dạy dỗ, khoan dung đối với con cái và con cái yêu thương, kính trọng, vâng lời cha mẹ. Có thể thấy từ là điểm xuất phát, là cơ sở để hình thành hiếu hiếu được coi là nết đứng đầu của đạo đức con người: “Làm trai nết đủ trăm đường, trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay”. Đạo Hiếu yêu cầu con cái phải biết công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, phải kính trọng, yêu thương, phụng dưỡng cha mẹ… Có từ, có hiếu ắt sẽ có sự hy sinh mọi mặt để tạo nên gia đình êm ấm, hòa thuận, hạnh phúc [92].

Từ, hiếu, đức hy sinh là những giá trị tốt đẹp trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái của GĐTT cần được phát huy trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay. Tuy nhiên, cần tránh việc cha mẹ hay con cái tuyệt đối hóa đạo “Từ, hiếu, đức hy sinh” dẫn đến những sai lầm trong đối xử hàng ngày. Cha mẹ chiều con hết mức, đáp ứng mọi yêu cầu của con (tình yêu thương mù quáng) dẫn đến con cái có thể trở thành những người quen được chiều chuộng sẽ sống thụ động, dựa dẫm, không tự lập hoặc khi cha mẹ không đáp ứng được yêu cầu thì bực tức, chửi bới, bỏ nhà ra đi, hư hỏng, đua đòi với bạn bè, sa vào các tệ nạn xã hội… gây đau lòng cho các gia đình và bức xúc cho xã hội. Ngược lại, những người con do tuyệt đối hóa đạo “hiếu” mà cha mẹ nói gì đều nghe hết, không phân biệt phải, trái, đúng sai, không trao đổi, phân tích để cha mẹ hiểu dẫn đến có thể làm những điều không hay, thậm chí vi phạm pháp luật hoặc từ bỏ chính kiến của mình, từ bỏ công danh, sự nghiệp, hạnh phúc của bản thân…


Đối với ông bà, con cháu là ông bà gương mẫu, hòa thuận, con cháu hiếu thảo, hiền lành, chăm ngoan.

Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của GĐTT Việt Nam. Ông bà chính là những người lớn tuổi đã trải qua nhiều vị trí, vai trò khác nhau trong gia đình (làm con, cháu, chồng, vợ, cha, mẹ…) nên tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm trong lao động cũng như trong ứng xử, giáo dục đạo đức, giữ gìn nền nếp, gia phong, gia đạo của gia đình. Giữa ông bà, con cháu là quan hệ ruột thịt, gần gũi thiêng liêng. Ông, bà yêu quý con cháu, con cháu cũng kính trọng, thương yêu ông bà là giá trị, đồng thời là nguyên tắc ứng xử. Ông bà là người cao tuổi, giàu kinh nghiệm sống sẽ sẻ chia trách nhiệm cùng với cha mẹ trong việc chăm lo xây dựng gia đình, tiền đồ, sự nghiệp, hạnh phúc riêng tư cho các thế hệ con cháu. Từ sự gương mẫu, hòa thuận, chăm sóc, quan tâm của ông bà với con cháu nên các con cháu càng có thêm sự kính trọng, yêu thương, gần gũi với ông bà, luôn ngoan ngoãn, vâng lời, nghe theo sự chỉ bảo, dạy dỗ của ông bà.

Những chuẩn mực ông bà gương mẫu, hòa thuận, con cháu hiếu thảo, hiền lành, chăm ngoan chính là đặc trưng cũng là nét đẹp của GĐTT cần được phát huy trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay. Mặc dù vậy, trong quá trình phát huy, cần phải khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử xã hội như: tư tưởng gia trưởng, áp đặt suy nghĩ, hành động của người già, người lớn đối với con cháu, ít lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ của thế hệ trẻ, thiếu bình đẳng, tự do dân chủ trong gia đình. Điều này làm cho thế hệ con cháu dễ nảy sinh hai khuynh hướng: hoặc là nghe, làm theo người lớn một cách thụ động, máy móc… hoặc là phản đối, cãi lại người lớn gay gắt và nảy sinh nhiều biểu hiện tiêu cực khác.

Đối với anh, chị, em là hòa thuận,thương yêu, gắn bó keo sơn

Trong GĐTT Việt Nam, tình cảm giữa anh, chị, em rất đặc biệt, sâu nặng được đề cao và dường như nó chỉ đứng sau mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng mối quan hệ này là một trong những mối quan hệ lâu dài nhất, gắn liền với định mệnh, số phận trong cuộc đời của mỗi con người. Nó được sinh ra trong gia đình, con người không thể tự lựa chọn. Đặc trưng cho mối quan hệ này là tình cảm hai chiều ăn sâu vào gốc, rễ mỗi con người nên anh, chị, em trong gia đình phải yêu thương, gắn bó, hòa thuận, đoàn kết với nhau. GĐTT coi trọng, giáo dục cho con cái trong gia đình về tôn ti, trật tự, thứ bậc trong mối quan hệ trên dưới.


Trong các chuẩn mực giữa anh, chị, em trong gia đình, người Việt đề cao sự “hòa thuận”, coi nó như yêu cầu, chuẩn mực hàng đầu. Hòa thuận là anh, chị, em trong gia đình phải luôn yêu thương, đoàn kết, không cãi cọ, xích mích, tranh giành quyền lợi với nhau, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau ngay cả khi họ đã có gia đình riêng, cuộc sống riêng. Hòa thuận không chỉ là nhu cầu nội tại của mối quan hệ giữa anh, chị, em mà còn là yêu cầu, mong muốn của cha mẹ, họ hàng. Có thể thấy, sự hòa thuận của anh, chị, em là một trong những yếu tố tạo nên sự hòa thuận của một gia đình, đồng thời cũng là đòi hỏi của xã hội. Dư luận xã hội luôn biểu dương những gia đình có anh, chị, em sống hòa thuận, yêu thương, gắn bó với nhau và lên án, nhắc nhở, phê bình những gia đình anh, chị, em không đạt những chuẩn mực này.

Quá trình phát huy giá trị tốt đẹp trong mối quan hệ giữa anh, chị, em trong gia đình, nhất thiết cần xóa bỏ tư tưởng “quyền huynh, thế phụ” của GĐTT. Trong gia đình hiện đại, anh chị em đều phải yêu thương, quan tâm, chăm sóc, sống hòa thuận với nhau, cùng nhau bàn bạc, chia sẻ, gánh vác chung công việc của gia đình, không thể quy trách nhiệm, phó mặc tất cả cho anh trai trưởng. Ngược lại, anh trai trưởng cũng không thể áp đặt mọi việc cho các em của mình. Có như vậy mới tạo lập được mối quan hệ bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng; đồng thời, phát huy được điểm mạnh, khắc phục điểm yếu giữa anh chị em, giữa các thành viên trong gia đình.

Thứ hai: Giá trị giáo dục của gia đình truyền thống

Giáo dục trong gia đình có ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng đầu tiên, liên tục, thường xuyên và lâu dài đối với mỗi con người. Giáo dục trong GĐTT là giáo dục trên mọi mặt nhằm tạo điều kiện, môi trường tốt nhất để con người hình thành đạo đức, nhân cách và phát triển toàn diện. Nội dung giáo dục trong gia đình truyền thống cần được phát huy, cụ thể là:

Giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong gia đình và ứng xử bên ngoài xã hội. Giáo dục đạo đức trong GĐTT thường là giáo dục gia đạo, gia lễ, gia phong góp phần hình thành nhân cách cho con người và duy trì tôn ti, trật tự, mối quan hệ gắn kết giữa các thành viên trong gia đình.

Gia đạo thường được hiểu là đạo nhà, đạo đức gia đình, là những nguyên tắc chỉ đạo cuộc sống, cách ứng xử của các thành viên trong gia đình: vợ chồng yêu thương, chung thủy, hòa thuận, sống có tình có nghĩa; cha mẹ với con cái thì từ, hiếu, đức hy


sinh; ông bà thì gương mẫu, hòa thuận, con cháu hiếu thảo, hiền lành, chăm ngoan; anh chị em thì hòa thuận, yêu thương, gắn bó keo sơn, sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau.

Gia phong là nếp nhà, phong cách gia đình. Đây là nề nếp mà mọi người phải noi theo trong lời ăn, tiếng nói, hành vi, ứng xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia phong gắn liền với kinh nghiệm sống, trình độ văn hóa, phong cách của gia chủ. Nó trở thành nghệ thuật ứng xử nhằm xây dựng gia đình có nề nếp, hòa thuận, ấm êm, sống có tình thương, tôn trọng lễ nghĩa [121]. Gia phong chính là nếp sống, là niềm tự hào và lẽ sống của con người trong GĐTT.

Gia lễ là lễ nghi trong gia đình. Gia lễ chỉ các phép tắc ứng xử, đảm bảo trật tự kỷ cương, sống có trên có dưới, lễ nghĩa phân minh, có sự hòa quyện của ý thức đạo đức và ý thức pháp luật [121]. Gia lễ còn bao gồm lễ tết, nghi thức, phong tục tập quán liên quan đến sinh hoạt văn hóa gia đình như lễ sinh con, cưới hỏi, giỗ chạp, tang lễ… Gia lễ không chỉ là nghi thức thực hành theo thói quen, phong tục, tập quán mà còn được ghi chép thành sách để mọi người cùng xem và thực hiện.

Ngoài ra, các gia đình còn giáo dục về các chuẩn mực, cách ứng xử đối với những người sống xung quanh mình, giáo dục mối quan hệ bạn bè, bằng hữu theo chuẩn mực sống chan hòa, tôn trọng, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau và luôn phải giữ chữ tín.

Giáo dục học tập văn hóa: GĐTT thông qua lễ nghi, phong tục, tập quán, sự truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm hiểu biết về tri thức khoa học, xã hội của những người lớn cho thế hệ trẻ, con cháu trong gia đình nhằm giáo dục cho con cháu tính siêng năng, cần cù, chăm chỉ, hiếu học, sự hiểu biết sâu rộng về văn hóa.

Giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho thế hệ trẻ. Giáo dục lao động không chỉ để rèn luyện thói quen lao động, quý trọng thành quả lao động mà còn để phát triển cho trẻ khả năng tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng ở các lĩnh vực khác nhau. Nội dung giáo dục lao động bao gồm cả lao động trí óc và lao động chân tay nhằm giúp cho con trẻ hiểu được lao động là nhu cầu, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi con người. Giáo dục lao động làm cho trẻ hiểu được vị trí, vai trò, ý nghĩa của lao động đối với cuộc sống của mỗi con người, với gia đình và sự phát triển của đất nước. Thông qua giáo dục lao động sẽ rèn luyện được tính tự lập, tự giác của trẻ, giúp trẻ ngày càng trưởng thành hơn, có thể vững vàng bước ra sống tự lập bên ngoài cộng đồng, xã hội.


Giáo dục giới tính cho con trẻ. Trong GĐTT việc giáo dục giới tính cho con trẻ cũng được các gia đình quan tâm. Giáo dục giới tính thường thông qua cách dạy dỗ chuẩn mực “làm con trai” hay “làm con gái”. Con trai thường được giáo dục theo “tam cương, ngũ thường, ngũ luân”, còn con gái được giáo dục theo “tam tòng, tứ đức” của Nho giáo. Ngoài ra, thông qua kinh nghiệm, cha mẹ cũng truyền đạt cho con cái kiến thức về giới tính, về kinh nghiệm làm cha làm mẹ của mình...

Phát huy giá trị giáo dục của GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay, cần phát huy những nội dung phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội mới, đồng thời lọc bỏ đi những nội dung giáo dục truyền thống không còn phù hợp. Chẳng hạn, cần phải loại bỏ tư tưởng trọng nam, khinh nữ, tam tòng, trung hiếu theo khuôn phép của tư tưởng Nho gia, bởi nó tác động tiêu cực đến xây dựng GĐVH hiện nay, nhất là đối với người phụ nữ.

Thứ ba: Giá trị tâm lý, tình cảm của gia đình truyền thống

Các thành viên trong gia đình không chỉ gắn bó với nhau bằng những mối liên hệ về vật chất mà còn gắn bó với nhau bằng những mối liên hệ về tâm lý, tình cảm. Tâm lý, tình cảm ruột thịt giữa các thành viên trong gia đình luôn là sợi dây vô hình liên kết, gắn bó giúp cho con người thấy gia đình là tổ ấm, con người được chở che, nâng đỡ, nương tựa, chia sẻ cả những lúc vui lẫn lúc buồn. Vì vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy, bản thân dù đi xa hay về gần, dù buồn hay vui, suy nghĩ đầu tiên bao giờ cũng là nghĩ về ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái hay anh chị em trong gia đình. Bằng những hành động, lời nói thể hiện sự sẻ chia, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau còn giúp cho các thành viên trong gia đình phục hồi sức khoẻ, tinh thần, có động lực, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.

Giá trị tâm lý, tình cảm của GĐTT giúp cho các thành viên trong gia đình gắn kết với nhau, là một trong những yếu tố tạo điều kiện để mỗi thành viên trong gia đình phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và giúp cho các gia đình trở thành tế bào lành mạnh góp phần phát triển xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, vùng ĐBSH đang phát triển, chịu sự tác động mạnh mẽ của KTTT, quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những mặt tích cực, các yếu tố này cũng làm nảy sinh những bất ổn cho xã hội, cho cuộc sống


của mỗi gia đình, gây hậu quả xấu đến tâm lý, tình cảm của các thành viên trong gia đình. Vì thế, mỗi người trong gia đình rất cần được sự quan tâm, động viên, chia sẻ từ các thành viên khác trong gia đình. Gia đình luôn phải là tổ ấm, là “lá chắn”, điểm tựa nâng đỡ con người vượt lên khó khăn, gian khổ để vươn lên trong cuộc sống. Đây chính là lý do cần thiết phải phát huy giá trị tâm lý, tình cảm của GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.

Thứ tư: Giá trị ý thức cộng đồng của gia đình

Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, nhà - làng - nước luôn có mối quan hệ gắn kết, mật thiết, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Mối quan hệ “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” luôn được nhấn mạnh trong tư tưởng giáo dục của GĐTT đối với những bậc quân tử. Theo đó, gia đình yên thì xã tắc yên, gia đình loạn thì xã tắc cũng tất loạn hay “nước mất thì nhà tan”… Gia đình là một bộ phận gắn kết với dòng họ, với quê hương, đất nước và là tế bào của xã hội. Mỗi con người sinh ra đều có nguồn gốc, có thời gian, không gian sinh tồn cụ thể. Vì thế, ông cha ta luôn nhắc nhở, răn dạy con cháu những điều hay, lẽ phải, yêu thương, đùm bọc, hỗ trợ, gắn kết với nhau. Ngoài mối quan hệ gia đình, dòng tộc, con người còn có tình làng, nghĩa xóm nên cũng phải học các quy tắc ứng xử, phải tương thân, tương ái, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Thậm chí, trong nhiều trường hợp gia đình nào đó vì một vài lý do khách quan hoặc chủ quan không thể ở gần ông bà, bố mẹ, anh chị em, dòng họ thì gia đình đó còn phải tạo lập mối quan hệ láng giềng tốt đẹp nhất, do vậy có lúc phải “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, xóm giềng “tối lửa, tắt đèn có nhau”… Tình yêu thương, đoàn kết gắn bó, tương thân, tương ái không chỉ dừng lại ở gia đình, dòng họ, làng xã mà còn phải mở rộng ra đến quốc gia, dân tộc tạo thành truyền thống tốt đẹp yêu nước, thương nòi, đoàn kết, chịu thương, chịu khó, hiếu học, nhân ái…của dân tộc Việt Nam. Quá trình hình thành, phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam chính là một minh chứng hùng hồn cho những giá trị cộng đồng trường tồn đó.

Như vậy, có thể thấy giá trị ý thức cộng đồng giúp gắn bó chặt chẽ các thành viên trong gia đình, thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đối với mọi thành viên trong gia đình và mở rộng ra với dòng họ, làng, xã, quê hương, đất nước.

Vùng ĐBSH trong lịch sử đã tạo ra văn hóa, văn minh sông Hồng và là cái nôi, cội nguồn để phát triển văn hóa, bản sắc dân tộc. Trong giai đoạn phát triển hiện nay,

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 05/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí