Thỏa Thuận Lãi Suất, Phí Tín Dụng Trong Hợp Đồng Cho Vay, Nghĩa Vụ Hoàn Trả Nợ Gốc Và Lãi Tiền Vay


vốn vay cao. Vì vậy, bên cạnh yếu tố con người, các TCTD cần cụ thể hóa nghĩa vụ này trong các quy định nội bộ bằng việc thiết kế chi tiết một quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng, hoàn trả nợ thiết thực và hiệu quả.

3.3.3. Thỏa thuận lãi suất, phí tín dụng trong hợp đồng cho vay, nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay

Trong lĩnh vực ngân hàng, lãi suất được hình thành từ nhiều yếu tố dựa trên nguyên tắc chi phí - hiệu quả, có tính đến nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu điều khoản lãi suất trong HĐCV, bên cạnh những thỏa thuận của hợp đồng, phải xem xét vấn đề này trong mối quan hệ với kinh tế, nhân tố tác động làm thay đổi, điều chỉnh lãi suất trong suốt thời hạn hợp đồng.

3.3.3.1. Thỏa thuận lãi suất trong hợp đồng cho vay

a) Quy định về tự do thỏa thuận lãi suất trong hợp đồng cho vay

Lãi suất do các bên thỏa thuận ghi trong HĐCV, về nguyên tắc phải phù hợp với sự điều hành chính sách lãi suất của nhà nước trong từng thời kỳ (Điều 91, Luật các TCTD năm 2010), phù hợp với từng ngành nghề, từng lĩnh vực nhất định. Theo cơ chế lãi suất này, pháp luật ngân hàng đã thể hiện nguyên tắc tự điều tiết lãi suất mang tính linh hoạt, xuất phát từ nhu cầu thực tế của bên vay, biến động cung cầu vốn, lãi suất huy động của các TCTD.

Trên lý thuyết, thỏa thuận lãi suất giữa các bên vay vốn dưới hình thức: Thỏa thuận trong khuôn khổ cho phép (theo biên độ trần và sàn lãi suất do nhà nước ấn định của kỳ hạn vay), hoặc tự do thỏa thuận lãi suất, có điều chỉnh theo biến động thị trường trong từng thời điểm, từng giai đoạn vay (lãi suất cố định hoặc thay đổi theo biến động của thị trường, còn gọi là “lãi suất thả nổi”139).

Quy định về tự do thỏa thuận lãi suất trong HĐCV là điểm mới, xuất phát từ chủ trương tự do hóa lãi suất được Đảng, nhà nước định hướng mang tính chiến lược đối với ngành ngân hàng.140 Vấn đề này cũng nhận được nhiều quan tâm khi được tác giả tiến hành công tác khảo sát, đánh giá, lấy ý kiến các chuyên gia, các doanh nghiệp, cá nhân,141 với nội dung: Lãi suất, thước đo đánh giá hiệu quả khoản vay, tác động trực tiếp đến chính lợi ích của khách hàng. Đó là những chủ thể thường xuyên tham gia quan hệ tín dụng, mong muốn được hưởng chính sách lãi suất phù hợp, minh bạch. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN tiếp tục cụ thể hóa cơ chế lãi suất thỏa thuận theo hướng linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và mức độ tín nhiệm của bên vay, tạo thế chủ động cho các TCTD trong kinh doanh, bảo đảm nguyên tắc tự do thỏa thuận giao kết hợp đồng, bảo đảm quyền tiếp cận vốn.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

139 Pháp luật các nước có những quy định khác nhau về lãi suất: Điều 38 Luật NHTM Trung Quốc, NHTM ấn định lãi suất cho vay phù hợp với lãi suất trần và sàn được NHNN quy định; Điều 33.1 Luật Ngân hàng Ba Lan, lãi suất áp dụng là lãi suất cố định hoặc điều chỉnh được quy định trong hợp đồng

140 Đây là chủ trương của Đảng được ghi tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010 về việc “Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 14

141 Xem thêm: Phụ lục 1 – Khảo sát về HĐCV


Như vậy, thỏa thuận lãi suất giữa các bên trong quan hệ HĐCV vẫn được xem là ưu điểm của pháp luật về HĐCV hiện nay. Song, TCTD không được phép lợi dụng nhu cầu của khách hàng, tự đặt ra bất kỳ mức lãi suất nào đối với khách hàng, cản trở quyền tiếp cận tín dụng. Bởi lẽ, nếu lãi suất quá cao so với mặt bằng của thị trường sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, khi đó khách hàng hạn chế đi vay làm doanh thu, tăng trưởng ngân hàng chậm lại. Ở góc độ khác, khách hàng vay sẽ tìm đến các kênh tín dụng ngoài ngân hàng, gây ra những tác động tiêu cực đến hiệu quả của hoạt động ngân hàng.

b) Điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng cho vay

Rủi ro về lãi suất trong HĐCV là một dạng rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Tác giả Joel Bessis trong tác phẩm “Quản trị rủi ro tín dụng” (Risk Management in Banking) đã có những phân tích sâu sắc về những rủi ro nếu ngân hàng áp dụng lãi suất cố định như sau: “Một người vay với lãi suất cố định đối mặt với lãi suất đó tăng, khi đó người cho vay phải chịu chi phí cơ hội – chi phí là không thể cho vay với lãi suất cao hơn142.

Thật vậy, trong các chính sách của NHTM, vấn đề rủi ro lãi suất luôn được đặt ra, theo nghĩa “rủi ro khi nguồn tiền trong tương lai của công cụ tài chính diễn biến bất thường do những biến động của lãi suất thị trường143. Đi kèm theo đó, các ngân hàng thường đưa ra các phương pháp điều chỉnh lãi suất theo định kỳ một cách hợp lý. Chẳng hạn, Quyết định số 10/TB-DAB-KHDN ngày 08/1/2018 của Ngân hàng thương mại cổ phần ĐA đề ra nguyên tắc áp dụng theo sau: Lãi suất điều chỉnh = lãi suất cơ sở

+ biên độ (trong đó lãi suất cơ sở là lãi suất huy động của tiết kiệm thông thường đối với tiền Việt Nam, hoặc lãi suất điều chuyển vốn theo nguyên tệ tương ứng với kỳ hạn cho vay đối với đô la Mỹ; biên độ đối với từng thời hạn vay từ 2% đến 4%/năm).

Áp dụng lãi suất cho vay được điều chỉnh theo định kỳ vẫn thường được các TCTD lựa chọn, trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động như hiện nay. Chẳng hạn, Hợp đồng tín dụng số 2000-LAV-201101382 ký kết ngày 14/3/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần XNKVN với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất thương mại cao su TC, tại Điều 5, mục 5.1 có thỏa thuận: “lãi suất cho vay áp dụng cho từng lần giải ngân là lãi suất cho vay…công bố có hiệu lực tại thời điểm giải ngân”). Trong khi đó, mục 5 của Hợp đồng tín dụng số 0443/2016/100 ngày 14/6/2016 ký giữa Ngân hàng thương mại cổ phần NA với Công ty trách nhiệm hữu hạn GRA được ghi: “lãi suất cho vay … theo quyết định của ngân hàng tại thời điểm giải ngân theo phê duyệt của cấp có thẩm quyền”. Về bản chất, thỏa thuận lãi suất ghi trong hai HĐCV nêu trên chính là lãi suất điều chỉnh, được các ngân hàng áp dụng từ lâu, như một thông lệ khi cho vay, đến nay vẫn thường được áp dụng.



142 Joel Bessis (Bản dịch của Trần Hoàng Ngân, Đinh Thế Hiển), Risk Management in Banking (Quản trị rủi ro trong ngân hàng), Nxb. Lao động xã hội, tr. 108

143 Thuyết minh Báo cáo tài chính hợp nhất tháng 12/2017 của Ngân hàng Vietcombank, tr. 58


Xét về phương diện quản trị rủi ro lãi suất, đây là yêu cầu mang tính bắt buộc, được thực hiện, chi phối bởi các chính sách vĩ mô của nhà nước, của các TCTD. Song, mức lãi suất do TCTD đơn phương công bố tại thời điểm giải ngân dựa trên các tiêu chí nào, có phù hợp với pháp luật hay không, rõ ràng các điều khoản của hợp đồng vay này vẫn chưa đề cập đến. Quy định như trong hợp đồng nêu trên sẽ không tránh khỏi những tùy tiện khi được thực thi.

Pháp luật ngân hàng trước đây cũng như hiện nay không quy định nghĩa vụ của các TCTD phải công khai chính sách lãi suất cho vay và có biện pháp chế tài hữu hiệu nếu có sai phạm. Lợi dụng vào sự thiếu minh bạch này, nhiều trường hợp, khi chính sách lãi suất của TCTD thay đổi theo hướng giảm đi (có lợi cho bên vay), bên vay vẫn không hay biết, nên phải tiếp tục gánh chịu lãi suất cao theo mức ấn định ban đầu trong hợp đồng vay. Vì vậy, quy định về lãi suất cho vay điều chỉnh phải có tiêu chí, phương pháp tính cụ thể, bắt buộc được các NHTM lưu trữ, thông báo cho NHNN làm cơ sở tham chiếu khi cần thiết (cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác thanh tra, giám sát; tòa án làm cơ sở, chứng cứ để giải quyết tranh chấp).

Thực tiễn pháp luật, các cơ quan tố tụng nghiêm túc áp dụng quy định về điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng vay. Song, không ít trường hợp, chính các quy định của pháp luật chưa rõ ràng, có những hạn chế như đã viện dẫn làm cho việc thực thi, hiệu quả chưa được trọn vẹn.

Tình huống pháp lý (2):

Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành án lệ về lĩnh vực tín dụng ngân hàng mang số 08/2016/AL có nội dung về việc xác định lãi suất, điều chỉnh lãi suất trong HĐTD áp dụng cả trong giai đoạn xét xử, và cho đến khi thi hành xong (còn gọi là “Án lệ số 08/2016/AL”).144

Tóm tắt vụ án như sau:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/7/2010, Ngân hàng thương mại cổ phần NTVN

- Chi nhánh TL (ngân hàng) và Công ty cổ phần Dược phẩm K (Công ty K) ký kết 04 (bốn) HĐTD, được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Do Công ty K chỉ mới trả được một phần tiền nợ gốc và nợ lãi, ngân hàng khởi kiện yêu cầu tòa án buộc Công ty K phải thanh toán số tiền còn nợ là 8.197.957.837 đồng (Trong đó: nợ gốc là 5.457.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 397.149.467 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.343.808.370 đồng) và xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ…

Bản án sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 24/3/2011, Tòa án quyết định: “1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện… Buộc Công ty K có trách nhiệm phải trả cho ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi là 8.197.957.837 đồng. 2. Không chấp nhận yêu cầu của ngân hàng đòi phát mãi các tài sản là giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất…”.



144 Xem thêm: Phụ lục 03 – Tóm lược những vụ án tranh chấp HĐCV điển hình (Vụ án thứ 7). Vụ án được ban hành theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Tòa án nhân dân tối cao


Ngày 04/4/2011, ngân hàng có đơn kháng cáo.

Bản án phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17/8/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN tuyên sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 23 và 24/3/2011 về phần nghĩa vụ bảo lãnh… Buộc Công ty K phải có trách nhiệm thanh toán trả cho ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 8.197.957.837 đồng, đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ.

Án lệ số 08/2016/AL có ghi giải pháp pháp lý như sau: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án”cũng là không đúng. Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn,… thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm Bên đi vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

Trường hợp trong HĐTD, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất… Bên đi vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của tòa án cũng sẽ được điều chỉnh phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay.

Đây là tình huống pháp lý điển hình được các tòa án vận dụng thường xuyên khi giải quyết tranh chấp HĐCV. Án lệ số 08/2016/AL đã đặt ra vấn đề điều chỉnh lãi suất theo thỏa thuận hợp đồng, kết quả giải quyết là minh chứng cho thấy sự khác biệt trong cách vận dụng quy định này giữa các cấp tòa án:

Thứ nhất, Án lệ số 08/2016/AL đã chỉ ra cụ thể cách tính lãi suất khi có biến động trên thị trường, được các bên thỏa thuận điều chỉnh, ghi trong HĐCV. Giải pháp pháp lý được án lệ đưa ra: “… các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay… quyết định của tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay”, là phù hợp với quy định của pháp luật về thỏa thuận lãi suất, phù hợp với nghiệp vụ, thông lệ khi cho vay như đã được phân tích. Các căn cứ pháp lý ghi trong án lệ có vận dụng cả các Điều 471, 474, 476 BLDS năm 2005 (nay là các Điều 463, 466, 468 theo BLDS năm 2015) vốn dĩ áp dụng cho hợp đồng vay tài sản nói chung bao gồm cả HĐTD, đồng thời quy định theo hướng mở cho phép áp dụng quy định liên quan về lãi suất của dạng hợp đồng này là phù hợp pháp luật.145 Vấn đề này đã được luận án đề cập, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa hai hợp đồng.146

Trong tình huống pháp lý này, ngoài việc áp dụng quy định pháp luật chuyên ngành ngân hàng về HĐCV, các cơ quan tố tụng còn phải áp dụng các nguyên tắc



145 Tòa án nhân dân tối cao đã từng xét xử và chỉ rõ việc áp dụng hợp đồng vay tài sản khi quyết tranh chấp án tín dụng ngân hàng là chưa chính xác (xem: Quyết định Giám đốc thẩm số 14/2015/KDTM ngày 21/5/2015, Tòa án nhân dân tối cao về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa Ngân hàng thương mại cổ phần ĐA và ông Nguyễn Vũ A)

146 Xem tại Mục 2.1.2.1 (điểm c): Một vài so sánh về sự khác biệt giữa HĐCV với hợp đồng vay tài sản


pháp lý cơ bản của quan hệ hợp đồng trong pháp luật dân sự, nhưng án lệ lại không đề cập đến là thiếu sót.

Thứ hai, Án lệ số 08/2016/AL đề cập đến việc điều chỉnh lãi suất của ngân hàng khi cho vay là phù hợp công tác quản trị rủi ro lãi suất, nhưng sẽ khó thực hiện nếu lãi suất thay đổi liên tục trong một kỳ hạn vay. Chẳng hạn, có thời kỳ lãi suất cho vay dựa theo lãi suất cơ bản do NHNN ấn định, chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 01/10/2008 đến ngày 22/12/2008, NHNN công bố 5 mức lãi suất cơ bản khác nhau từ 14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm rồi về lại mức lãi suất thấp hơn 8,5%/năm.147 Vấn đề này được pháp luật hiện hành nêu lên nguyên tắc áp dụng lãi suất thấp nhất, có lợi cho bên vay nếu lãi suất điều chỉnh dẫn đến nhiều mức lãi suất cho vay khác nhau (khoản 5, Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN), dựa trên lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chi phí, lợi nhuận như hiện nay của các TCTD. Lãnh đạo Ngân hàng nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh mới đây cũng tiếp tục nhìn nhận, khẳng định cách tính lãi suất điều chỉnh có lợi cho bên vay, theo đó: “Ngân hàng phải lấy mức lãi suất thấp nhất của kỳ hạn 12 tháng để làm cơ sở xác định lãi suất của kỳ điều chỉnh148.

Với những trình bày nêu trên, có thể thấy, ngành ngân hàng cũng đã nhìn nhận sự bất hợp lý về lãi suất điều chỉnh. Tuy vậy, với các tiêu chí do TCTD đặt ra dựa theo tiền gửi tiết kiệm 12 tháng cộng biên độ được tính trên tỷ lệ phần trăm/năm, trong khi đó, vận dụng quy định lãi suất về tiền gửi tiết kiệm pháp luật không quy định rõ, nên khó có thể xác định mức lãi suất tiền gửi 12 tháng thấp nhất để ấn định lãi suất cho vay của kỳ điều chỉnh. Thêm vào đó, nếu không có sự hợp tác của TCTD, chắc chắn quy định này sẽ gặp không ít khó khăn đối với các tòa án khi xét xử, vì pháp luật hiện hành không quy định TCTD phải có nghĩa vụ minh bạch, công khai đăng ký lãi suất tiền gửi. Khi đó, ý nghĩa của lãi suất điều chỉnh đúng với nhu cầu, quy luật thị trường không đạt được như mong muốn của các nhà làm luật.

Trong vụ việc được bình luận trên, có thể thấy, Án lệ số 08/2016/AL đã kịp thời chỉ ra sự bất hợp lý trong việc áp dụng cơ chế điều chỉnh lãi suất khi giải quyết tranh chấp án tín dụng. Tình huống pháp lý này có ý nghĩa thực tiễn, giúp cho các tòa án vận dụng thống nhất cách tính lãi suất đúng như tinh thần của ngành tòa án đã đề ra khi ban hành án lệ. Thiết nghĩ ngành tòa án cần tiếp tục ban hành nhiều án lệ liên quan đến tranh chấp HĐCV để làm rõ hơn nguyên tắc áp dụng, phương pháp tính lãi (Ví dụ: Án lệ về việc áp dụng pháp luật khi có nhiều mức lãi suất khác trong kỳ hạn vay; Án lệ về căn cứ để điều chỉnh lãi suất trong kỳ hạn vay; Án lệ về lãi suất được áp dụng khi TCTD đơn phương chấm dứt cho vay…) vốn dĩ vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, không chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu một tình huống án lệ của luận án này.



147 Tòa án nhân dân tối cao, Sổ tay thẩm phán. Nguồn: http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/ebb/1787571, truy cập lúc 7:59 ngày 19/10/2016

148 Trích phát biểu của ông Nguyễn Hoàng Minh - Phó Giám đốc Ngân hàng nhà nước, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Nguồn: AH, Người đi vay được lợi hơn, Báo Tuổi trẻ ngày 18/3/2017, số 69/2017 (8608), tr. 7


Tóm lại, lãi suất trong quan hệ HĐCV (thỏa thuận lãi suất) thể hiện rõ nét nhất của quyền tự do hợp đồng. Song, xuất phát từ những biến động của nền kinh tế, rủi ro lãi suất vẫn được các TCTD đặt ra, cần có cơ chế pháp lý vận dụng thống nhất, đúng với quy luật vận động của thị trường. Với những phân tích trên, luận án đã làm rõ thực trạng quy định này vẫn còn nhiều bất cập, cần thống nhất áp dụng theo hướng bảo đảm quyền lợi cho bên vay. Đó cũng chính là mục tiêu của các nhà làm luật đặt ra, vì sự minh bạch trong các giao dịch vay.

3.3.3.2. Phí tín dụng trong hợp đồng cho vay

Pháp luật ngân hàng hiện hành luật hóa cụ thể quyền thu các khoản phí của TCTD liên quan đến hoạt động cho vay (Điều 14 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Quy định này đã thể hiện rõ quan điểm của nhà làm luật, đó là: chỉ thu các khoản chi phí liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến HĐCV (ví dụ như: chi phí trả nợ trước hạn, phí cho hạn mức tín dụng dự phòng, phí cam kết rút vốn…). Các chi phí giấy tờ, tiền lương, khấu hao tài sản, phí thẩm định, chi trả hoa hồng, nộp thuế, rủi ro, lợi nhuận… đã được các TCTD tính vào lãi suất cho vay.

Pháp luật hiện hành bổ sung thêm một loại phí - “phí cam kết rút vốn”, áp dụng cho lần giải ngân đầu tiên, bù đắp chi phí thu xếp vốn cho vay của TCTD nhằm tránh trường hợp khách hàng đã ký kết thỏa thuận cho vay, được TCTD sắp xếp, bố trí nguồn vốn để vay nhưng không vay. Việc bổ sung quy định này trong luật nhằm tăng cường trách nhiệm bên vay, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh do khách hàng tự ý chấm dứt vay trước thời hạn hợp đồng, tìm đến ngân hàng khác vay để hưởng mức lãi suất thấp, ưu đãi hơn.

Trên lý thuyết, khoản phí tín dụng không cố định, không phụ thuộc vào từng đặc điểm của khoản vay và chi phí thực tế các bên đã bỏ ra. Những khoản phí này khác với chi phí vận hành của một TCTD (tiền lương, thưởng, chi phí thuê, đầu tư mặt bằng, tìm kiếm khách hàng, quảng cáo…) được TCTD hạch toán vào lãi suất như một căn cứ xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu pháp luật không có sự phân định cụ thể chi phí khách hàng phải trả theo đúng yêu cầu, đúng tiêu chí nhất định, điều này không tránh khỏi những lạm dụng, sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho khách hàng vay.

Trong thực tiễn, các TCTD thường tổ chức các khâu thủ tục, phải trả các khoản phí như: chi phí thẩm định giá trị tài sản bảo đảm, lệ phí công chứng, đánh giá luận chứng kỹ thuật dự án đầu tư... Các khoản lệ phí, chi phí nêu trên cũng được xem như chi phí của TCTD phải bỏ ra, được đưa vào tiền lãi của hợp đồng vay để khấu trừ. Trường hợp TCTD đã quyết định cho vay, khách hàng từ chối không ký kết hợp đồng vay, thì những khoản thiệt hại của TCTD, khách hàng phải chịu trách nhiệm bồi hoàn đầy đủ. Cơ chế trách nhiệm trong trường hợp này dựa theo luận cứ khoa học về trách nhiệm bồi thường trong giai đoạn tiền hợp đồng đã được luận án đề cập, đề xuất bằng các kiến nghị.149



149 Xem thêm: Mục 4.3.2. Trách nhiệm pháp lý của các bên trước khi ký kết HĐCV (giai đoạn tiền hợp đồng)


Liên quan đến việc thu phí trong các HĐCV, Nghị định số 96/2014/NĐ-CP cho phép cơ quan nhà nước xử phạt hành chính, với mức phạt lên đến 20.000.000 đồng là phù hợp (khoản 1, Điều 14). Song, biện pháp khắc phục hậu quả nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp, theo tác giả là trái với nguyên tắc của giao dịch dân sự. Theo đó, ngân hàng phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận (khoản 2, Điều 131 BLDS năm 2015) do đây là khoản phí đã thu trái pháp luật của khách hàng vay.

Như vậy, điều khoản về lãi suất và phí tín dụng tiếp tục nhận được sự quan tâm nhiều nhất của khách hàng. Với tỷ lệ đồng ý sửa đổi, bổ sung cao nhất trong số các ý kiến được thu thập,150 theo tác giả, các quy định về phí cho vay tại Thông tư số 39/TT- NHNN đã có nhiều tiến bộ như đã viện dẫn: Xác định các khoản phí cho phép TCTD được thu của khách hàng. Điều cần thiết hiện nay là cần phải minh bạch hơn nữa chính sách lãi suất của các TCTD, cơ chế điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng vay để bảo đảm lợi ích chính đáng của bên vay.

3.3.3.3. Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đối với bên vay

Pháp luật ngân hàng quy định cụ thể nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay nhằm bảo đảm bên vay ý thức, trách nhiệm trả nợ đối với khoản nợ tại từng thời điểm tín dụng. Đây còn là cơ sở để xác định hành vi, thời hạn tuân thủ hay vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Đồng nghĩa rằng, TCTD được quyền thực thi các biện pháp, cách thức để kiểm soát nợ, thu hồi nợ.

Trong quá trình vay, bên vay không trả được nợ có thể vì nhiều lý do chủ quan, khách quan khác nhau. Tùy thuộc vào điều kiện và năng lực tài chính của mình, bên cho vay có thể chủ động điều chỉnh kỳ hạn trả nợ (khoản 1, Điều 18 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật về hiệu quả và an toàn khi thực thi công tác này. Pháp luật còn nghiêm cấm những trường hợp che dấu nợ, đảo nợ, tạo nguy cơ rủi ro cho chính TCTD và hệ thống ngân hàng. Dựa vào quy định này, các bên có thể thỏa thuận phương thức thanh toán phù hợp với hoàn cảnh, năng lực tài chính của mình. Ngay cả khi phải trả nợ trong cùng một kỳ hạn, TCTD cũng cần phân biệt các khoản nợ gốc và lãi cụ thể để làm căn cứ tính lãi suất, các khoản phạt vi phạm sau này.

Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và tiền lãi của bên vay đi kèm theo đó là các biện pháp chế tài, gây bất lợi cho bên vay, do vậy, thông thường bên vay phải tự giác, nghiêm túc thực hiện. Trường hợp bên vay không trả nợ, với tư cách là chủ nợ, bên cho vay được quyền yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết, thông thường nội dung phán quyết bao gồm toàn bộ các khoản bồi thường thiệt hại, các khoản phạt và biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.



150 Xem: Phụ lục 1 – Khảo sát về HĐCV


Các biện pháp chế tài vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và lãi suất được pháp luật Việt Nam quy định như sau:

- Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc: Pháp luật hiện hành cho phép các TCTD được chuyển nợ quá hạn (Điều 20 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN), bằng việc ấn định một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay trong hạn trở thành thông lệ chung, phù hợp với nguyên tắc chế tài vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vay.

- Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lãi: Pháp luật đặt ra chế tài bằng hình thức phạt chậm trả lãi (khoản 4, Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả.

Nghĩa vụ trả nợ ngân hàng có những điểm khác biệt với nghĩa vụ thanh toán trong lĩnh vực thương mại về đặc điểm chủ thể, đối tượng, mục đích. Tuy cùng phát sinh từ hợp đồng nhưng trong quan hệ cho vay, tiền vay hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Bên vay không chỉ trả nợ khi đến hạn cam kết mà còn phải thực hiện nghĩa vụ này đến khi trả hết nợ, không phụ thuộc ngân hàng có xúc tiến đòi nợ hay bị phụ thuộc thời hạn hoạt động tố tụng của tòa án, trọng tài. Lãi suất phát sinh trong giai đoạn này về nguyên tắc cũng phải tuân theo lãi suất được ghi trong HĐCV có vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nghĩa là lãi suất nợ quá hạn theo mức lãi suất có điều chỉnh hoặc không điều chỉnh như thỏa thuận ban đầu.

Vì vậy, bản án, quyết định của tòa án, trọng tài khi xét xử phải ghi rõ mức lãi suất trong bản án, quyết định để đương sự thi hành; đồng thời, thống nhất ấn định lãi suất bên vay phải trả từ thời điểm trả nợ cho đến khi trả hết nợ, thay vì để các cấp tòa hoặc cơ quan thi hành án tự ấn định thời điểm, mức lãi suất dựa trên các quy định của giai đoạn tố tụng, của pháp luật về chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán (giai đoạn thi hành án) trong lĩnh vực dân sự, trái với nguyên tắc hoàn trả tiền vay và lãi suất, thỏa thuận hợp đồng, không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các TCTD (do tính lãi suất bị gián đoạn, thấp hơn mức thỏa thuận).

Vấn đề đặt ra là, những giới hạn của quyền yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi đến đâu? Có bị chi phối, ảnh hưởng bởi quy định về thời hiệu khởi kiện hay không vẫn còn nhiều tranh luận cả trong lý luận và thực tiễn. Vì lẽ, nếu quyền này bị chi phối thời hiệu kiện, khi đó nguy cơ TCTD bị thiệt hại, không thu hồi được tiền vay, làm gia tăng áp lực xử lý nợ của TCTD.151

Tóm lại, những nghĩa vụ nêu trên đã thể hiện mục đích, ý nghĩa cơ bản của quan hệ cho vay. Quy định này không chỉ làm bình đẳng nghĩa vụ giữa các chủ thể hợp đồng, mà còn thể hiện rõ nét bản chất của tín dụng. TCTD vừa là người cho vay nhưng cũng là người đi vay nên nghĩa vụ của bên vay không đơn thuần là quyền lợi hợp đồng đối với bên cho vay trong việc hoàn trả tiền vay. Đó còn là trách nhiệm của



151 Xem thêm: Tiểu mục 3.3.3.3. Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đối với bên vay, Mục 4.2.5. Bảo đảm quyền yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay tại tòa án, trọng tài

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/12/2022