Nợ Quá Hạn Do Những Nguyên Nhân Khách Quan

đặc điểm của vốn vay tham gia vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn của DN. Về nguyên tắc, trong phạm vi thời hạn quy định đến hạn trả nợ, DN, người vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho NHTM. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì cả phía đi vay và bên cho vay đều được coi như là thực hiện đúng cam kết, vốn vay của NHTM được thu hồi để sử dụng vòng luân chuyển khác. DN trả nợ NH và thực sự nguồn vốn mà NH cho vay đã giúp họ hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhìn chung là có lợi cho các bên, cả NH, DN, người vay và cả nền kinh tế. Nhưng thực tế không diễn ra suôn sẻ như vậy, có nhiều DN không trả được nợ và lãi cho NH khi đến hạn trả, trong trường hợp này NH không thu hồi được vốn và lãi, đó chính là NQH. Như vậy NQH được hiểu một cách tổng quát là một khoản nợ mà người đi vay đến hạn phải trả cho NHTM cả vốn và lãi theo cam kết nhưng họ lại không trả được cho NH và khoản NQH đó tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như hoạt động sản xuất của DN.

Như vậy, bản chất của NQH trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến thời hạn thanh toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Hay nói cách khác thì NQH là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo.

Ta có:

Tổng NQH

Tỉ lệ NQH (%) = x 100

Tổng dư nợ

Ý nghĩa: Tỉ lệ NQH phản ánh: Cứ 100 đồng cho vay thì có bao nhiêu đồng NQH. Trong đó:

- Tổng NQH bao gồm: NQH, nợ chờ xử lý, nợ khoanh.

- Tổng dư nợ cho vay, cho thuê phải xem xét đến các yếu tố:

+ NQH < 180 ngày, 180 ngày < NQH < 360 ngày;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

+ Các khoản nợ chờ xử lý;

+ Nợ cho vay được khoanh.

Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 3

Theo quy định của NHNN thì tỉ lệ NQH so với tổng dư nợ cho vay, cho thuê ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 5% và NQH khó đòi chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng NQH thì NH đó mới được đánh giá là có hoạt động tín dụng hiệu quả. Để xem xét về thực trạng NQH người ta quan tâm nhiều đến rủi ro mang tính thời hạn. Ta có:



Tỷ lệ NQH theo

=

thời gian (%)

Số nợ gốc chưa trả của tất cả các khoản

vay quá hạn từ 1,31,61,91…360 ngày x 100 Tổng dư nợ cho vay, cho thuê


Dựa vào cách tính cụ thể này, các NHTM biết một cách chính xác hơn về tình

hình NQH của NH mình trong từng thời điểm, so sánh với mức quy định chung, để từ đó có các biện pháp điều chỉnh và quản lý tín dụng tốt hơn.

Theo đó tại Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN quy định về phân loại NQH như sau:

Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ trong thời hạn mà các tổ chức đánh giá là có đủ khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn.

- Các khoản NQH dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 điều này.

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:

- Các khoản NQH từ 10- 90 ngày

- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là DN, tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu)

- Các khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 điều này.

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản NQH từ 91-180 ngày

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.

- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 điều này.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản NQH từ 181-360 ngày

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu

- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này.

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

- Các khoản NQH trên 360 ngày

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ ba trở lên kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.

- Các khoản nợ khoanh nợ cần xử lý

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này.[17, tr 2-3]

Như vậy tất cả các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 đều được gọi là NQH. Sự khác biệt của NQH so với nợ xấu ở chỗ: NQH được hiểu là quá thời hạn thỏa thuận theo hợp đồng mà khách hàng không thanh toán thì khoản nợ đó bị coi là NQH còn nợ xấu là khoản NQH mà người đi vay không trả được cho NH, các NH coi đây là khoản nợ không sinh lời cần theo dõi và xử lý. Tại Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007 của NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Theo phương pháp “định lượng” thì “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn). Còn theo phương pháp “định tính” tại điều 7 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì nợ xấu gồm 3 nhóm:

• Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:Các khoản nợ được TCTD đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.

• Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:Các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng tổn thất cao.

• Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:Các khoản nợ được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Như vậy, không phải mọi khoản NQH đều bị coi là nợ xấu mà phải căn cứ vào thời hạn và bản chất của khoản NQH để xác định khoản nợ đó là NQH hay nợ xấu để có biện pháp xử lý phù hợp. Nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ, cụ thể: Nợ xấu: là các khoản NQH có thời gian cơ cấu lại hơn 90 ngày hoặc là các khoản nợ vẫn còn trong thời hạn cam kết, nhưng khách hàng vay bị mất khả năng thanh toán, hoặc NH có những bằng chứng xác thực chứng minh được mức độ rủi ro tăng cao cho khoản tín dụng, hoặc các khoản phải thanh

toán đã quá hạn dưới 90 ngày, nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Dù vậy ta vẫn phải thừa nhận rằng việc phân biệt rạch ròi giữa NQH và nợ xấu hay bản thân nợ xấu là bao nhiêu cũng là không đơn giản.

1.1.3. Nguyên nhân nợ quá hạn

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến NQH đó có thể là những nguyên nhân chủ quan hay nguyên nhân khách quan, hoặc các nguyên nhân khác. Biết được nguyên nhân phát sinh NQH thì các NHTM mới có thể khắc phục được từ đó hạn chế NQH nói chung và nợ khó đòi nói riêng..

1.1.3.1. Nợ quá hạn do những nguyên nhân khách quan

Những nguyên nhân bất khả kháng dẫn đến không thanh toán được các khoản NQH như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố… là những nguyên nhân thường gặp nhưng lại vượt ngoài tầm kiểm soát của con người. Bên cạnh đó các chính sách của nhà nước có nhiều thay đổi gây ra cho người đi vay những gánh nặng không đáng có. Trong thực tế, các DN trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với các DN nước ngoài, dẫn đến mất thị trường tiêu thụ, biến động giá cả gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tác động xấu đến thu hồi công nợ của NH.

Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện, nên thường có sự điều chỉnh thay đổi, nhiều DN không theo kịp, không dự báo chính xác được nhu cầu của thị trường, khiến cho việc làm ăn thua lỗ, kế hoạch kinh doanh của DN vay vốn NH bị đảo lộn đã trực tiếp tạo ra các khoản NQH cho NH. Đặc biệt trong thời gian gần đây, lãi suất huy động vốn giảm, lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh giảm theo nên người đi vay chấp nhận chịu lãi suất NQH còn hơn là trả nợ NH rồi thì không vay được nữa hoặc nếu phải vay ngoài hay vay của các tổ chức khác thì lãi suất vẫn cao hơn. Như vậy, trong lúc nền kinh tế của chúng ta đang chuyển mình thay đổi bên cạnh sự tích cực mà các chính sách đem lại thì hệ quả tất yếu đó là sự rủi ro cho cả hai phía NH và khách hàng, sự rủi ro này nằm ngoài

kiểm soát nên người phải gánh chịu tổn thất chính là các NH.

Sự biến động của thị trường thế giới cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng NQH, do nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp, gây ảnh hưởng đối với các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các DN, những khách hàng thường xuyên của NH phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.

Sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các NH trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro, nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các NH nước ngoài thu hút.

Đối với các DN nhà nước do chủ trương chính sách của nhà nước về sắp xếp lại DN, sát nhập, giải thể, phá sản nhưng DN không có khả năng trả nợ hoặc không còn đối tượng để thu hồi nợ cũng dẫn đến NH không thể thu hồi được khoản nợ đã cho DN vay. Bên cạnh đó, các DN, tập đoàn nhà nước được NH ưu đãi lãi suất với các khoản vay thường không có tài sản bảo đảm hoặc nếu có tài sản bảo đảm thì hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ, hoặc thủ tục về thế chấp tài sản của DN nhà nước phức tạp, không phải bao giờ cũng được cơ quan ký quyết định thành lập DN nhà nước cho cầm cố, thế chấp dây chuyền sản xuất chính và khi DN không trả được các khoản nợ đến hạn thì NH sẽ là bên gặp rủi ro lớn nhất. Chính sự bao bọc các DN, tập đoàn kinh tế nhà nước của các NHTM mới chính là hiểm họa.

Các chương trình cho vay theo dự án, theo chỉ định của chính phủ, cho vay theo dự án đầu tư và cho vay theo chỉ thị “ngầm” của các cấp chính quyền diễn ra với mục đích bù lãi suất và tránh rủi ro pháp luật dẫn đến khoản tín dụng có chất lượng thấp gây rủi ro lớn cho các NHTM. Thậm chí có chương trình được xây dựng thiếu căn cứ khoa học dẫn đến sự bất cập cung cầu. Trường hợp Chính phủ yêu cầu NH phải cho vay, Chính phủ sẽ chịu trách

nhiệm chuyển nguồn, hoặc bù lãi suất và chịu trách nhiệm với nợ không thu hồi được. Tuy nhiên, cho vay theo chỉ thị “ngầm” lại không như vậy. Luật các TCTD ghi rõ, không cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền gây sức ép đối với TCTD khi ra quyết định cấp tín dụng. Trên thực tế, sức ép này là hiện hữu, và có khi được chính TCTD tận dụng. Tại nhiều địa phương, các cấp chính quyền, đoàn thể thường phối hợp với NH trong việc thúc đẩy khách hàng trả nợ đúng hạn. Chính quyền nhận thức rõ vai trò của NH trong phát triển kinh tế địa phương, như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập. Do đó họ đã cùng với NH tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy người vay trả nợ NH. Quan hệ tích cực này hình thành trên cơ sở nhận thức đúng đắn của cả cấp chính quyền, Đảng, đoàn thể và NH về kỷ luật tín dụng. Một số cấp chính quyền, ngược lại coi NH như kênh tài trợ quan trọng khi gặp khó khăn về ngân sách. Họ gây áp lực cho NH bỏ qua kỷ luật tín dụng để tài trợ cho những dự án tài chính yếu kém song kỳ vọng lại lớn.

Sự phân biệt người vay có tài sản hay không có tài sản bảo đảm của các NH mà mặc nhiên bỏ qua các yếu tố khác như uy tín, hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay và hệ quả là các DN muốn vay phải thiếu trung thực, các NH sẽ khó khăn trong việc kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.

Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến NQH là do một số NHTM nhà nước chưa có Ủy ban quản lý tài sản nợ, trong danh mục vay hiện nay đều hiện diện hầu hết các nhóm hàng và dịch vụ, sự cạnh tranh giành thị phần ở các nhóm ngành mà không phải là thế mạnh đã mang đến rủi ro bất thường ở một số NHTM. Mặt khác các NHTM chưa công bố công khai về danh mục cho vay như đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao, loại hình cho vay, thời hạn đáo hạn, quy mô và chất lượng của khoản vay. Việc công bố danh mục cho vay theo báo cáo thường niên của NHTM nhà nước chỉ dừng lại ở sự thống kê các khoản mục cho vay vào các ngành hoặc loại công việc ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy vậy, thông tin một danh mục cho

vay chất lượng cao, thời hạn cho vay của một NH theo chiến lược và theo đặc thù riêng ít được truyền dẫn đến công chúng.

Ngoài những nguyên nhân kể trên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng sự điều chỉnh chính sách, các quy định của pháp luật, những thay đổi về địa giới hành chính các địa phương, sát nhập, hay tách ra của các bộ ngành trong nền kinh tế đều gây rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM nếu như không nắm bắt kịp thời các thông tin, và việc thực hiện các quy định của pháp luật không nghiêm và kém hiểu biết về nghiệp vụ sẽ đưa đến những sai lầm đáng tiếc.

1.1.3.2. Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan

Hoạt động thanh tra NH và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra NH còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra NH còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra NH còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NH cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.

Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về DN và NH. Đó cũng là thách thức cho hệ thống NH trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 09/09/2024