ích hợp pháp của các bên trong việc xử lý nợ quá hạn được thể hiện: Trước hết lợi ích của NHTM đối với khoản vay đã cấp cho khách hàng cần được bảo vệ. Lợi ích này thể hiện ở việc trao quyền cho NH trong việc truy đòi đối với khoản NQH, quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm, quyền thực hiện phương thức xử lý tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép và các quyền khác đối với tài sản theo cam kết trong hợp đồng tín dụng. Bên cạnh đó lợi ích của khách hàng vay cũng cần được chú ý, cho phép khách hàng vay được tham gia
trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tự nguyện.
- Nguyên tắc xử lý công khai, khách quan: NQH cần được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng tín dụng. Nguyên tắc này vừa bảo đảm nguồn thu nợ tối đa của NHTM từ việc xử lý NQH, vừa bảo vệ lợi ích của khách hàng vay. Việc thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi toàn bộ quá trình xử lý NQH phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, có sự tham gia của bên thứ ba hoặc giao cho bên thứ ba xử lý khoản NQH đó. Ngoài ra, các bên có thể thực hiện việc thu nợ thông qua con đường tòa án. Hoạt động xử lý NQH không phải là hoạt động sản xuất kinh doanh của NHTM mà NHTM chỉ muốn thông qua đó thu được các khoản đã cho khách hàng vay.
1.1.7. Biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Khi một khoản vay được giải ngân, không cần biết khoản vay đó có vấn đề hay không thì các NHTM đã phải đề ra biện pháp ngăn ngừa và hạn chế NQH xảy ra, và nếu không may tình trạng NQH xảy ra thì các NHTM sẽ phải đưa ra biện pháp để làm giảm thiểu tới mức tối đa ảnh hưởng của nó tới hoạt động tín dụng, cũng như các hoạt động khác của NH. Tùy thuộc vào mức độ của khoản nợ mà ta có cách thức xử lý cho phù hợp. Đối với các khoản NQH thông thường thì đây là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao, để tạo điều kiện cho khách hàng trong việc trả nợ NH có thể áp dụng các hình thức sau:
Các biện pháp phòng ngừa, hạn chế nguy cơ phát sinh nợ quá hạn: các NH hiện nay rất quan tâm đến các biện pháp phòng ngừa có thể áp dụng để hạn chế NQH gây thiệt hại đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Về mặt pháp lý khi cho khách hàng vay bất kỳ khoản vay nào, dù là lớn hay nhỏ NH thường xem xét hồ sơ vay vốn, điều kiện vay vốn và tài sản bảo đảm của khoản vay. Trong trường hợp cho vay đối với DN nhà nước, cho vay theo chỉ định của chính phủ thì xem xét khách hàng có thỏa mãn điều kiện của TCTD để được vay vốn hay không.
Ngoài ra NH còn sử dụng biện pháp phân tán rủi ro: Để tránh rủi ro, NH cần đa dạng hóa đối tượng cho vay, tránh chỉ dồn vào một số ngành nghề nhất định trong nền kinh tế, thực hiện đồng tài trợ với các khoản vay lớn mà NH không thể kiểm soát nổi, hoặc NH có thể tham gia bảo hiểm để tránh rủi ro.
Các biện pháp xử lý nợ quá hạn:
Khi khoản nợ đến hạn mà khách hàng vay không trả được, NH có thể gia hạn nợ hoặc giãn nợ, cơ cấu lại khoản nợ.
NH có thể cơ cấu lại khoản nợ cho vay bằng cách kéo dài kỳ hạn và rút bớt mức chi trả hàng tháng, hay thậm chí hủy bỏ sự trả vốn gốc trong một thời gian. NH cũng có thể giới thiệu một người cho vay dài hạn hơn hay cộng tác với một người cho vay khác và như vậy cũng sẽ giúp giảm bớt rủi ro. Để được gia hạn nợ, DN phải có đơn xin gia hạn và việc gia hạn nợ có thể thực hiện trước thời hạn đáo nợ của khoản vay. Nếu vì bất của lý do nào mà DN không xin gia hạn thì khoản vay sẽ bị chuyển sang NQH, và đương nhiên là DN sẽ phải chịu lãi suất NQH cao hơn lãi suất của khoản vay thông thường. Điều này không chỉ tác động tiêu cực đến NH mà còn gây ảnh hưởng xấu cho cả phía DN. Nhưng nếu sau đó DN lại có đơn xin gia hạn nợ, NH xét nếu thấy hợp lý thì khoản nợ sẽ được chuyển về khoản nợ thông thường chịu lãi suất gia hạn. Các khoản nợ kiểu này thường xảy ra đối với các DN có trình độ chuyên môn cao, nhạy bén với cơ chế thị trường và có khả năng điều chỉnh hoạt động kinh doanh để có thể thu hồi vốn hoàn trả khoản vay cho NH.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Nợ Quá Hạn Do Những Nguyên Nhân Khách Quan
- Phân Loại Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Lý Và Hạn Chế Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Trình Tự, Thủ Tục Xử Lý Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại
- Xử Lý Nqh Trong Trường Hợp Cho Vay Theo Chỉ Định Của Chính Phủ
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Trên thực tế, tất cả các khách hàng vay vốn ở các NHTM đều phải có nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn, hoặc trả nợ trước hạn theo quy định của pháp luật. Bên bảo lãnh có nghĩa vụ trả nợ thay khách hàng vay, nếu khách hàng vay không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp khách hàng vay và bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản đảm bảo dùng để đảm bảo nghĩa vụ tại NH sẽ được xử lý để thu hồi nợ.
Tài sản bảo đảm sẽ được xử lý theo phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc theo hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm theo phương thức thỏa thuận thì NH có quyền chủ động lựa chọn áp dụng một hoặc một số trong các phương thức xử lý tài sản đảm bảo sau đây để thu hồi nợ:
+ Bán tài sản bảo đảm - tài sản bảo đảm được bán trực tiếp cho người mua.
+ Nhận chính tài sản bảo đảm thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.
+ Ủy quyền bán đấu giá tài sản cho trung tâm bán đấu giá hoặc DN bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
+ Ủy quyền hoặc giao cho tổ chức có chức năng mua bán tài sản để giao cho tổ chức có chức năng mua bán tài sản để bán
Nhận các khoản tiền, tài sản hoặc bên thứ 3 phải trả hoặc giao cho bên bảo đảm theo quy định tại Thông tư số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA- BTC-TCĐT của NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính về việc hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các TCTD và các quy định khác của luật có liên quan.
NH có quyền chuyển giao thu hồi nợ hoặc ủy quyền cho bên thứ 3 xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật, bên thứ 3 có thể là công ty mua bán nợ AMC. Trong trường hợp khi được NH cho vay chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm như NH trực tiếp cho vay, nếu
được NH ủy quyền xử lý tài sản thì bên thứ 3 được quyền xử lý theo phạm vi ủy quyền.
Việc xử lý tài sản bảo đảm phải tuân thủ nguyên tắc công khai, đơn giản về thủ tục, tiện lợi, nhanh chóng, đồng thời vừa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của NH, bên thế chấp, tiết kiệm chi phí.
Đối với trường hợp khách hàng vay được hưởng chính sách ưu đãi tín dụng theo quy định của Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam nếu có phát sinh chênh lệch lãi suất và tổn thất các khoản vay do nguyên nhân khách quan thì việc xử lý thực hiện theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam và các Bộ, Ban ngành có liên quan.
1.2. Khái quát pháp luật về xử lý nợ quá hạn
Để hạn chế và xử lý các khoản NQH làm lành mạnh hóa tình hình tài chính, Nhà nước, Chính phủ và các Bộ, Ban ngành đã kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đối phó với tỷ lệ nợ đọng quá hạn tăng cao ở nhiều DN nhà nước cũng như nợ xấu ở khối NH. Các văn bản quan trọng bao gồm:
- Bộ Luật Dân sự 2005
- Luật các TCTD 2010
- Luật Doanh nghiệp nhà nước 2004
- Luật Phá sản 2004
- Luật Doanh nghiệp 2005
- Luật Hôn nhân và gia đình 2000
- Luật NH nhà nước 2010
- Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
- Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
- Nghị định 69/2002/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Thông tư 85/2002/TT-BTC ngày 26 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 của Chính phủ và quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Thông tư 74/2002/TT-BTC của BTC ngày 9 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn việc đánh giá lại khoản nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm của NH thương mại nhà nước.
- Quyết định số 92/2002/QĐ-TTg ngày 29 tháng 1 năm 2001 phê duyệt phương án tài chính để thực hiện cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương nhà nước 2001-2003 và Công văn số 36/CP- KTTH ngày 15/7/2002 về cấp bổ sung vốn điều lệ.
- Quyết định số 43/2001-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2001 thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính ngân hàng thương mại do Phó Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban.
- Quyết định 131/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ngân hàng chính sách Xã hội.
- Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 5 tháng 6 năm 2003 về việc thành lập công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.
- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03 tháng 02 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Quyết định 150/2001/QĐ-TTg của 5 tháng 10 năm 2001 về thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NH Thương mại.
- Quyết định 149/2001/TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại.
- Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
- Quyết định 18/2007 sửa đổi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Những văn bản pháp luật trên là những căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong quá trình tái cơ cấu và xử lý tận gốc các khoản NQH của NHTM, đặc biệt là đối với khối ngân hàng thương mại nhà nước đó được coi là công cụ hữu hiệu mà các NHTM sử dụng để hạn chế NQH.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Sự ảnh hưởng của nợ quá hạn tác động xấu đến nền kinh tế là một vấn đề không ai có thể phủ nhận, trong đó nợ quá hạn gây ra những hệ quả tiêu cực đến tài sản ngân hàng, đến khách hàng gửi tiền và cả hệ thống ngân hàng. Sự hiện diện của NQH là kết quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ những nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố đến các chính sách của nhà nước chưa phù hợp hay những nguyên nhân chủ quan của ngành ngân hàng đòi hỏi việc xử lý NQH phải tuân thủ các nguyên tắc để đưa ra được các biện pháp nhằm xử lý dứt điểm tình trạng nợ quá hạn đang ngày một tăng ở các ngân hàng thương mại hiện nay. Trên cơ sở hệ thống lý luận về NQH và lý luận về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của các NHTM, tác giả đề tài sẽ tập trung phân tích, đánh giá quá trình áp dụng pháp luật vào hoạt động thực tiễn của việc xử lý NQH tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay trong chương 2 của Luận văn.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1. Căn cứ xác định nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Để xác định một khoản tiền mà TCTD cho khách hàng vay đã quá hạn hay chưa thì căn cứ vào các văn bản pháp luật do nhà nước, Chính phủ, các Bộ, Ban ngành ban hành. Cụ thể, tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của các TCTD và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN đã quy định về phân loại nợ thành 5 nhóm theo phương pháp định lượng như sau:
Nhóm 1: (Nợ đủ tiêu chuẩn).
Nhóm 2 (nợ chú ý): nhóm có NQH dưới 90 ngày, các khoản nợ đã được cơ cấu lại.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): nhóm NQH từ 90 ngày đến 180 ngày hoặc khoản nợ đã được cơ cấu lại nhưng NQH vẫn dưới 90 ngày.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): các khoản NQH từ trên 180 ngày đến 360 ngày hoặc các khoản nợ đã được cơ cấu lại nhưng vẫn quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Nhóm 5: nhóm có khả năng mất vốn.
Mục tiêu của việc phân chia này để áp dụng các biện pháp cần thiết trích lập dự phòng (nợ nhóm 1: 0%; nợ nhóm 2: 5%; nợ nhóm 3: 20%; nợ nhóm 4: 50%; nợ nhóm 5: 100%). Nếu xét ở góc độ an toàn tín dụng đơn thuần thì đây là biện pháp phòng ngừa và sẵn sàng xử lý rủi ro tốt. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ các TCTD, thì cần cân nhắc quy định cho phù hợp. Nếu sử