tin tương xứng. Nếu các NH cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống NH.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả. Kinh doanh NH là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các NH cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều NH. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều NH cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một NH nào. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NH ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các NH có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay NH dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của NH. Chính sách đưa ra thống nhất, đầy đủ, đúng đắn, sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng khi thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động tín dụng. Khi cho vay NH phải xem xét kỹ điều kiện cho vay, đặc biệt khi cho khách hàng vay vốn rồi NH phải chú trọng trong việc giám sát tình hình sử dụng vốn vay, nếu không sẽ dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng hoặc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, như vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Theo quy định của NHNN Việt Nam thì cho vay đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có. Nếu khách hàng muốn vay một khoản vay lớn hơn mức quy định cho phép thì NH có thể thực hiện đồng tài trợ để phân
tán rủi ro. Tuy nhiên mức 15% là mặt bằng quy định chung, các NH cũng phải linh hoạt, nhạy bén về vấn đề này để có thể thu hút được khách hàng lớn.
Đưa ra định kỳ trả nợ chưa thích hợp với vòng luân chuyển vốn: Kỳ hạn trả nợ được xác định dựa trên chu kỳ sản xuất, kế hoạch bán hàng và doanh thu. Việc các NHTM không tính toán được kỳ hạn trả nợ phù hợp sẽ gây ra tình trạng chiếm dụng vốn của NH để sử dụng với mục đích khác hay khách hàng không trả nợ được đúng hạn bởi chu kỳ sản xuất chưa kết thúc, chưa thu lại được vốn và lãi.
Tư tưởng vay cho bằng được, vay bằng mọi giá để kỳ vọng vào việc khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xóa nợ ở khối các NHTM Nhà nước đã ăn sâu vào tiềm thức của người đi vay. Việc giải quyết các vụ án mà phía NHTM thắng kiện đã trở thành một điều rất khó khăn, việc phong tỏa tài sản của khách hàng vay vốn khi không trả được nợ là một việc làm không phải đơn giản. Khâu thẩm định, đánh giá lựa chọn tài sản đảm bảo đã được quy định nhưng việc quản lý đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về những danh mục tài sản của một NH lựa chọn, xét ưu tiên, nhận làm tài sản bảo đảm chưa có tính thống nhất mà chỉ dừng lại ở sự kiểm tra hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm.
1.1.4. Phân loại nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Để tiện cho việc quản lý tín dụng và thu hồi vốn trong từng trường hợp các chuyên gia đã đưa ra các tiêu chí khác nhau để phân loại NQH.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo chia thành:
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 1
- Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Nợ Quá Hạn Do Những Nguyên Nhân Khách Quan
- Biện Pháp Xử Lý Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Lý Và Hạn Chế Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Trình Tự, Thủ Tục Xử Lý Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
+ NQH có tài sản đảm bảo: là khoản nợ mà khi đi vay người vay nợ phải thế chấp tài sản đảm bảo cho NH, theo pháp luật NH có quyền phát mãi tài sản để thu nợ. NQH này tuy chưa thu được nhưng NH vẫn có khả năng để thu hồi nợ.
+ NQH không có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay NH không yêu cầu người vay thế chấp tài sản, khoản nợ này con nợ là DN vay vốn vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh nếu tình hình tài chính của DN tốt thì vẫn có khả năng thu hồi nợ.
+ NQH khó đòi: Loại nợ này xảy ra tồn đọng ở một số DN vay vốn có tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính yếu kém, biểu hiện là sản xuất kinh doanh thua lỗ, nợ phải trả tăng, DN gần như mất hẳn khả năng thanh toán nợ. Thời hạn nợ tồn đọng lâu, có thể kéo dài trên một năm, hai, ba năm thậm chí lâu hơn, bởi vậy các vụ việc này rất khó giải quyết.
Căn cứ theo thời hạn của khoản vay chia:
+ NQH của khoản vay ngắn hạn: là NQH của khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng
+ NQH của các khoản vay trung hạn: là NQH của khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ NQH của các khoản vay dài hạn: là NQH của các khoản vay trên 5 năm tính từ ngày giải ngân.
Căn cứ vào thành phần kinh tế phân thành:
+ NQH của DN nhà nước;
+ NQH của DN tư nhân; NQH của công ty cổ phần; công ty TNHH;
+ NQH của các hộ sản xuất cá thể
Căn cứ vào khả năng thu hồi phân thành:
+ NQH có khả năng thu hồi 100%.
+ NQH có khả năng thu hồi một phần
+ NQH không có khả năng thu hồi.
Căn cứ theo đồng tiền phân thành:
+ NQH bằng đồng Việt Nam.
+ NQH bằng ngoại tệ.
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh phân thành:
+ NQH do nguyên nhân chủ quan.
+ NQH do nguyên nhân khách quan.
Một khoản vay không có khả năng trả nợ vào thời hạn đáo hạn nợ thì khách hàng có thể xin gia hạn nợ. Tùy từng điều kiện của từng khách hàng mà NH có chấp nhận hay không. Nếu như hết thời gian gia hạn nợ mà khách hàng vẫn không có khả năng thanh toán thì NHTM sẽ chuyển toàn bộ khoản vay sang NQH và khách hàng lúc này phải chịu lãi suất NQH.
Như vậy, chúng ta thấy phân loại nợ đã phản ánh một nhu cầu cấp bách đó là sự phân biệt về tính chất của NQH, nợ xấu so với các loại nợ khác như nợ tồn đọng, nợ khó đòi và cần phải có kế hoạch quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các TCTD.
1.1.5. Sự ảnh hưởng của nợ quá hạn đối với hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
Trong quan hệ tín dụng, việc phát sinh NQH là điều không tránh khỏi bởi có những rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Theo quan điểm của P.Volcker cựu Chủ tịch cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu NH không có những khoản NQH thì không phải là hoạt động kinh doanh”. Tuy nhiên nếu NQH phát sinh vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến tài sản NH, người gửi tiền, NHTM và cả nền kinh tế.
Ảnh hưởng của NQH đối với tài sản NH: NQH phát sinh sẽ đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh doanh của NH bị tồn đọng trong các khoản nợ. Chính điều đó khiến cho các NH mất đi cơ hội làm ăn khác có thể đem lại lợi nhuận cho NH đồng thời làm giảm vòng quay vốn, giảm doanh số cho vay và hiệu quả sử dụng vốn.
NQH khiến cho doanh thu của NH giảm sút, lợi nhuận sẽ bị ảnh hưởng. Thu nhập của NH chủ yếu phát sinh từ hoạt động cho vay và nguồn vốn của NH cũng chủ yếu từ nguồn huy động trả chi phí huy động vốn. Do vậy khoản vay không thu được dẫn đến một bộ phận tài sản của NH bị đóng băng làm giảm thu nhập mà vẫn phải trả chi phí huy động vốn. Kết quả là làm cho lợi nhuận của NH giảm.
NQH khiến giảm khả năng thanh toán, làm thay đổi kế hoạch cũng như nguồn thanh toán của các khoản tiền đến hạn. Hơn nữa tỷ lệ NQH / Tổng dư nợ cao sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của NH. Nếu nắm bắt được dấu hiệu này thì khách hàng sẽ ồ ạt rút tiền. Việc này không chỉ khiến cho NH gặp khó khăn trong việc huy động vốn mà còn làm trầm trọng thêm tình trạng này.
Không những thế NQH còn làm giảm uy tín của NH. Do hoạt động kinh doanh của NH chủ yếu bằng tiền của người khác nên khi tỷ lệ NQH của NH cao tức là chất lượng tín dụng của NH càng thấp. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của NH và làm cho khách hàng không còn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH dẫn đến làm giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của NH.
NQH sẽ gây nguy cơ phá sản, đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của NQH đối với hoạt động NH. Nếu NQH ở mức cao không sớm được hạn chế sẽ dẫn đến hàng loạt các ảnh hưởng xấu như trên và cuối cùng là sự phá sản của NH.
Ảnh hưởng của NQH đối với khách hàng: Đối với khách hàng gửi tiền, NQH sẽ khiến giảm tốc độ chu chuyển vốn. Trong nền kinh tế hiện đại, hầu hết các hoạt động thanh toán giao dịch của khách hàng, đều được thực hiện thông qua NH và hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng chủ yếu dựa vào vốn vay NH. Do vậy tình trạng NQH dây dưa khó đòi của khách hàng, sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ của khách hàng với NH, làm giảm tốc độ trung chuyển vốn của khách hàng. Không những thế NQH còn khiến người gửi tiền lo lắng cho sự an toàn của khoản tiền và ồ ạt rút tiền cả gốc và lãi đẩy NH đứng trước khó khăn về thanh khoản.
Ảnh hưởng của NQH đối với hệ thống NH: Hoạt động của hệ thống NHTM rất nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro bởi chỉ cần một sự tổn thương nhỏ cũng gây lên sự xáo trộn lớn đối với nền kinh tế. NQH có thể gây nguy cơ sụp đổ của cả hệ thống NH theo phản ứng dây chuyền, gây mất ổn định xã hội
vì NQH có thể gây khủng hoảng tài chính, lãi suất tăng dẫn đến nợ xấu tăng. Khi người gửi tiền nhận ra dấu hiệu không lành mạnh của các định chế tài chính này thì một hiệu ứng nguy hiểm mang tính dây chuyền sẽ xảy ra, người gửi tiền đồng loạt rút tiền khỏi hệ thống NH, làm cho NH không kịp xoay sở và bị sụp đổ là điều đương nhiên. Khi NH mất khả năng thanh toán thì nền kinh tế và sự ổn định xã hội cũng đi xuống.
Ảnh hưởng của NQH đối với nền kinh tế: NQH làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các TCTD, làm chậm vòng quay của vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận. NQH cao sẽ gây ra tình trạng khan hiếm giả tạo về vốn cho nền kinh tế. Một khối lượng lớn vốn bị tồn đọng trong các khoản NQH sẽ làm giảm lượng tiền lưu thông, tạo sức ép cho việc tăng cung tiền mà kết quả là lạm phát. Nguy hiểm hơn nữa là, nếu hệ thống NH gặp phải tình trạng khủng hoảng sẽ kéo theo sự khủng hoảng của nền kinh tế. Bởi NHTM là kênh chủ yếu thực hiện huy động vốn và cho vay phát triển kinh tế. Hoạt động NH mang tính xã hội rất cao, đó là ảnh hưởng mang tính dây truyền. Nếu tỉ lệ NQH quá cao mà không có biện pháp xử lý kịp thời sẽ gây thua lỗ cho NH, do chi phí tăng cao mà thu nhập lại không hề tăng lên. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh thì các hoạt động như: huy động vốn, cho vay, đầu tư bị thu hẹp ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng kinh tế.
1.1.6. Nguyên tắc xử lý nợ quá hạn
Xử lý NQH là việc NHTM sử dụng các biện pháp, công cụ nhằm thu hồi các khoản nợ đến hạn khi khách hàng không có khả năng trả nợ, hoặc không trả được nợ đúng hạn.
Việc xử lý NQH không phải là mong muốn của các bên khi ký kết hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều nguyên nhân khách quan mà khách hàng vay vi phạm các thỏa thuận đã cam kết, thường là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ vay, sử dụng vốn sai mục
đích, bên bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết…và đương nhiên trong trường hợp này NH buộc phải dùng đến các biện pháp cần thiết để thu hồi lại khoản nợ gốc và lãi mà NH đã cho khách hàng vay.
Trên cơ sở khái niệm như trên, có thể rút ra một số đặc điểm của xử lý NQH như sau:
- Chủ thể tham gia xử lý NQH phải là các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như: NHTM; Trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc DN bán đấu giá; Tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc cơ quan thi hành án
- Mục đích của việc xử lý NQH là nhằm thu hồi các khoản nợ mà khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo cam kết tại hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ. Do hoạt động cho vay của NH luôn tiềm ẩn rủi ro và ảnh hưởng tới toàn hệ thống NH, vì thế có thể khẳng định việc xử lý NQH mà thông thường là xử lý tài sản bảo đảm tiền vay không phải là cái đích mà TCTD hướng tới. Nhưng trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo an toàn cho TCTD và thu lại được các khoản nợ mà NH đã cho khách hàng vay thì NH phải sử dụng tất cả các biện pháp để thu hồi nợ.
- Xử lý NQH là thủ tục đặc biệt. Sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà khách hàng vay không trả được khoản nợ thì NH buộc phải xử lý bằng các biện pháp như: Nuôi nợ, giãn nợ, khoanh nợ, bán tài sản bảo đảm…hoặc thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án để đòi nợ.
- Về thời điểm xử lý NQH: Phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ, NH chỉ được quyền xử lý NQH khi đến thời hạn trả nợ mà khách hàng vi phạm cam kết. Trong quan hệ tín dụng NH, khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay đến hạn, nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích, và các nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác thì NH sẽ tiến hành biện pháp xử lý NQH.
Nguyên tắc xử lý NQH đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình xử lý NQH. Để đảm bảo thực hiện các nguyên tắc này đòi hỏi phải có những quy định pháp điển hóa các nguyên tắc trong việc xử lý NQH cũng như toàn bộ vấn đề pháp lý về xử lý NQH. Nguyên tắc là những chuẩn mực, định
hướng cho mọi hoạt động là điều kiện bắt buộc các bên tham gia quan hệ tín dụng phải tuân theo. Các nguyên tắc xử lý NQH cụ thể như sau:
- Nguyên tắc tuân thủ những nội dung thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quan hệ dân sự, kinh tế. Do bản chất của quan hệ tín dụng là giao dịch trên cơ sở thỏa thuận hợp đồng nên nguyên tắc tuân thủ thỏa thuận của TCTD với khách hàng vay cần được coi là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất. Hơn nữa, thực tế cho thấy rằng nếu không tôn trọng thỏa thuận của các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng tín dụng thì pháp luật không thể điều chỉnh được một cách cụ thể các hành vi giao dịch. Nguyên tắc xử lý NQH thể hiện trong trường hợp:
+ Thỏa thuận về thời hạn vay, số tiền vay, cách thức, biện pháp xử lý NQH khi đến hạn thanh toán mà khách hàng vay không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp các bên thỏa thuận biện pháp xử lý NQH thì về nguyên tắc sẽ xử lý theo thỏa thuận. Nhưng nếu không có thỏa thuận thì TCTD có quyền xử lý tài sản khi nghĩa vụ bảo đảm bị vi phạm hoặc nhờ sự can thiệp của tòa án.
+ Thỏa thuận được thiết lập tại thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng, các bên có thể thỏa thuận về biện pháp xử lý NQH khác với thỏa thuận ban đầu hoặc thỏa thuận mới. Việc tôn trọng các thỏa thuận này là cần thiết nhằm giải quyết các tranh chấp đáng tiếc có thể xảy ra.
- Nguyên tắc hài hòa lợi ích của các bên tham gia hợp đồng tín dụng: Việc xử lý NQH để thu hồi nợ của các TCTD là mục tiêu mà pháp luật cần bảo vệ. Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng được pháp luật ghi nhận và được cụ thể hóa ở các quy trình, thủ tục xử lý NQH.
Thông thường khi cần một nguồn vốn nhất định khách hàng vay sẽ tìm đến chủ thể cho vay. Các điều kiện vay vốn, hợp đồng vay vốn, biện pháp bảo đảm tiền vay, biện pháp xử lý khi phát sinh NQH…., phần lớn những điều kiện trên là do NH áp đặt và thường là bất lợi cho khách hàng vay. Ngoài ra tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi, NQH phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp nhất định của khách hàng vay. Việc bảo đảm quyền và lợi