Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2

nghiệp nông thôn Việt Nam; “Cần gắn việc xử lý nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu NHTM Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dưa của nền kinh tế quốc dân” của TS. Nguyễn Viết Hồng, Giám đốc công ty AMC-NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên công trình nghiên cứu đó chỉ khảo sát, bình luận, nghiên cứu về mặt lý luận chứ chưa có công trình nào về đi sâu về các khía cạnh luật pháp giúp nâng cao hiệu quả giải quyết NQH ở NHTM, do đó đề tài này phần nào đáp ứng tính cần thiết của việc nghiên cứu trong tình hình hiện nay, khi mà các quy định về giải quyết NQH đang bộc lộ nhiều bất cập, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung ở góc độ luật pháp. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề này mang ý nghĩa lý luận thực tiễn sâu sắc.

Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị nhất định.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung, các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó có các Thông tư, các quyết định của NHNN, hướng dẫn các vấn đề liên quan của các bộ. Trong nội dung trình bày tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá xu hướng của việc áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết NQH, qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực NH đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế, quốc tế.

Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về NQH

- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý NQH, những kết quả đã đạt được và những bất cập trong việc xử lý NQH của các NHTM trong những năm qua.

- Từ kinh nghiệm xử lý NQH của một số nước trên thế giới và thực tế tình hình ở Việt Nam đưa ra nhưng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý NQH ở các NHTM.

4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xử lý NQH ở một số NHTM tại Việt Nam là: Các NHTM nhà nước như NH Ngoại thương Việt Nam; NH Công thương Việt Nam; NH Nông nghiệp và phát triển Nông thông Việt Nam…Và một số NHTM Cổ phần khác như: NH TMCP Á Châu; NHTM Cổ phần Quân đội…vv

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.

Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp luật NH và thực tiễn giải quyết NQH ở các NHTM hiện nay; kết hợp với khảo sát thực tiễn, phỏng vấn, tổng hợp trên cơ sở đó rồi rút ra những bất cập trong các quy định của pháp luật NH, thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một số kiến nghị về xử lý NQH đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả, phần nào giúp việc thu hồi NQH.

Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2

5. Đóng góp của luận văn

Thời gian gần đây có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề xử lý NQH nhưng chủ yếu nghiên cứu về nghiệp vụ của ngành, chưa đi sâu vào nghiên cứu về các quy định của pháp luật. Luận văn “Pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam” nghiên cứu vấn đề xử lý NQH một cách toàn diện về lý luận cũng như về thực tiễn; Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu về NQH, xử lý NQH, các phương án cũng như kết quả xử lý NQH. Từ đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao chất lượng và hiệu

quả của hoạt động xử lý NQH ở NHTM nhà ở Việt Nam. Hơn nữa luận văn còn góp phần nâng cao nhận thức của việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến NQH đặc biệt trong giai đoạn hội nhấp kinh tế quốc tế.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Nội dung của luận văn gồm có 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về NQH và pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay ở NHTM

Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam

Chương 3: Một số kiến nghị về hạn chế và xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.‌‌


1.1. Những vấn đề lý luận về nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm cho vay và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.

“Vay” được định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt là “Nhận tiền hay vật của người khác để sử dụng với điều kiện trả lại bằng cái cùng loại ít nhất có số lượng hoặc giá trị tương đương” [36, tr 364]. Như vậy, theo khái niệm này thì “vay” bao gồm cả việc nhận “tiền” hoặc “vật” để sử dụng và sẽ trả lại tại một thời gian trong tương lai bằng chính cái cùng loại.

Tại Khoản 3 - Điều 6 - Luật Quản lý nợ công năm 2009, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 “vay” được hiểu là “Quá trình tạo ra nghĩa vụ trả nợ thông qua việc ký kết và thực hiện hiệp định, hợp đồng, thoả thuận vay (sau đây gọi chung là thoả thuận vay) hoặc phát hành công cụ nợ” [29, tr 1]. So với khái niệm vay trong Từ điển Tiếng Việt thì phạm vi của thuật ngữ này đã bị thu hẹp lại chỉ là quá trình tạo ra nghĩa vụ trả nợ thông qua thỏa thuận vay.

Khái niệm cho vay của NHTM được hiểu theo nghĩa hẹp hơn và được quy định tại Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.[11, tr 1]

Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trù, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư khác.

Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng NHTM là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên bị ảnh hưởng theo những biến chuyển của môi trường kinh tế. Cho vay khác với các hình thức cấp tín dụng khác của các TCTD như: Chiết khấu các chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong nghiệp vụ cho vay, TCTD giao một khoản tiền nhất định trong một thời hạn nhất định cho bên đi vay, để dùng vào một mục đích nhất định và bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối với hình thức cho vay thì khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay.

Khác với cho vay, hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá của các TCTD là một hình thức tín dụng hợp đồng, dựa trên thỏa thuận giữa TCTD và người thụ hưởng về việc TCTD sẽ mua hối phiếu và các giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng, trước khi đến hạn thanh toán (Điều 57 luật các TCTD 2010) [19, tr.8-9]. Có thể thấy nét đặc trưng của việc chiết khấu là TCTD khấu trừ ngay lãi suất chiết khấu và chỉ cấp cho khách hàng phần tiền còn lại, phần lãi suất chiết khấu và các khoản hoa hồng khác có liên quan chính là phần lãi của các TCTD. Còn đối với hình thức cho thuê tài chính thì khoản tiền vay chính là khoản tiền mà TCTD dùng để mua tài sản để cho thuê, đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn của TCTD. Trong trường hợp bảo lãnh NH, Điều 58 Luật các TCTD quy định “Bảo lãnh NH là cam kết của NH dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết” [19,tr 8-9] khoản tiền vay mà bên đi vay nhận được chính, là khoản tiền mà TCTD phải chi trả cho bên có quyền trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. NH có thể thực hiện bảo lãnh dưới các hình thức cơ bản như: phát hành thư bảo hành, mở tín dụng thư, ký hối phiếu nhận nợ…

Hiện nay một số NHTM đã lập ra các phòng cho thuê hoặc các công ty cho thuê tài chính để thực hiện hoạt động cho thuê, điểm khác biệt với hoạt

động cho vay là bên thuê không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng thuê cho đến khi hết thời hạn thuê, bên thuê được quyền ưu tiên mua hoặc thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận.

Hoạt động cho vay của các NHTM là một trong số các hoạt động cơ bản và mang lại nguồn thu chủ yếu khoảng 70% lợi nhuận hàng năm, thông qua việc cho vay các NHTM đã thực hiện việc điều hòa nguồn vốn nhàn rỗi, tạm thời, nguồn vốn mà NH có được thông qua việc huy động vốn từ công chúng để đáp ứng nhu cầu về vốn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Chủ thể tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng vay). Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa TCTD và khách hàng là hợp đồng tín dụng NH.

Khi nền kinh tế càng phát triển, doanh thu từ hoạt động cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng ở hầu hết các nước phát triển hàng đầu thế giới, cho vay của các NHTM đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn, ngược lại ở hầu hết các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát…)

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, bên cho vay thông thường là các TCTD được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật các TCTD. Ngoài ra các TCTD khác không phải là TCTD nếu được NHNN Việt Nam cho phép thực hiện hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng cũng phải thỏa mãn điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật như khách hàng vay vốn của TCTD, phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phải hoàn trả cả gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Còn bên đi vay có thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam hoặc cá nhân, pháp nhân nước ngoài (sau đây gọi chung là khách hàng vay) có quan hệ tín dụng với TCTD cũng phải thoả mãn điều kiện nhất định của TCTD như: phải có năng

lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; Thực hiện quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và NH nhà nước Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 có quy định TCTD và khách hàng vay phải thỏa mãn điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật thì mới trở thành chủ thể cho vay và chủ thể được vay.

Ở nước ta, vấn đề rủi ro trong kinh doanh NH và vấn đề quản lý không còn mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ NH đồng thời hoạt động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống NH cả nước. Bộ máy quản lý NH kém năng động, rủi ro càng dễ phát sinh khiến nó không thể hiện được hết khả năng vốn có của mình gây thiệt hại cho nền kinh tế.

Rủi ro NH không những là nỗi ám ảnh của hệ thống NH một nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của hệ thống NH trên thế giới. Ngay cả đối với các NH có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được hết mọi rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro trong cho vay là những vấn đề "thời sự” cho hệ thống NH.

Trong số các rủi ro tín dụng thì rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM luôn tiềm ẩn lớn nhất. Điều này xuất phát từ tâm lý của người đi vay, việc trả nợ hay không trả nợ vay, hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của khách hàng vay, các NH trong trường hợp này hoàn toàn lâm vào tình trạng bị động, rủi ro xảy đến là rất lớn. Tuy nhiên, mặc dù nhận thấy được những rủi ro và đã có nhiều biện pháp khắc phục, phòng ngừa nhưng nguy cơ NQH vẫn luôn đe dọa các NHTM với các món nợ khổng lồ đang chờ họ giải quyết và đẩy họ đứng trước bờ vực của phá sản, giải thể hoặc sát nhập với các NH khác để tồn tại.

1.1.2. Khái niệm nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàngThương mại.

Theo quy định tại Từ điển tiếng việt của Trung tâm từ điển thuộc Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006, “Nợ” được hiểu là: “Cái vay phải trả mà chưa trả” [36, tr 278]. Tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD, nhà làm luật đã liệt kê nợ bao gồm các khoản cho vay ứng trước thấu chi và cho thuê tài chính, các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, các khoản bao thanh toán, các hình thức tín dụng khác.[17, tr1]

Theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN nêu rõ: NQH trong kinh doanh của NH là hiện tượng của khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn mà đã cam kết trong khế ước vay trước đây. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ hay được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang NQH và khách hàng phải chịu lãi suất NQH đối với số tiền chậm trả. [19,tr 1]

Ta biết rằng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài nguồn vốn tự có của mình, các DN phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn vốn vay của các NHTM, đây là nguồn vốn rất cần thiết đảm bảo cho các DN thực hiện tốt hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Còn về phía NHTM đây là nghiệp vụ kinh doanh của NH theo nguyên tắc “đi vay” để “cho vay”. Như vậy, phát sinh việc nhu cầu vay vốn NH của các DN và vấn đề cho vay vốn của các NH là một yếu tố khách quan, diễn ra thường xuyên trong quá trình thực hiện mọi hoạt động kinh doanh cả phía DN và NHTM. DN vay vốn NH và được NH cho vay thực hiện bằng những cam kết theo nội dung thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, mỗi khoản vay đều ấn định thời hạn trả nợ, thời hạn trả nợ bao lâu, nhanh hay chậm là do

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/09/2024