Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân Hàng Thương Mại



có uy tín, hay những khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay không có đảm bảo.

- Dựa theo hình thức hình thành khoản vay có hai hình thức cho vay là cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp.

+ Cho vay trực tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Đây là các khoản cho vay khi khách hàng trực tiếp đến ngân hàng và xin vay vốn. Ngân hàng trực tiếp chuyển giao tiền cho khách hàng sử dụng trên cơ sở những điều kiện mà hai bên thoả thuận.

Khi khách hàng có tài sản thế chấp, có uy tín cao mà không cần phải thông qua trung gian nào thì họ thường vay trực tiếp ngân hàng.

+ Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm, như nhóm sản xuất hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ ... Các tổ chức này thường xuyên liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giầu, xoá đói giản nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm.

Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trìmh sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.

Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ...)

Cho vay trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá cho người vay vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

1.1.2. Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm cho vay tiêu dùng

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ - 4

- Khái niệm cho vay tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện, đồ dùng gia đình... Bên cạnh



đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch... cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.

Tại Khoản 16, Điều 4 Luật Các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 định nghĩa: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” [15]. Căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của các NHTM, chúng ta thấy rằng cho vay luôn là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng và là khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác khoản mục, cho vay có tính lỏng kém hơn vì thông thường chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó đến hạn thanh toán. Khi một khoản vay được NHTM cấp cho người vay thì người vay mới là bên chủ động: có thể trả ngân hàng tiền vay trước hạn, đúng hạn thậm chí có thể xin gia hạn thêm thời gian trả nợ. Còn các NHTM chỉ được phép quản lý các khoản vay đó tuân theo hợp đồng đã ký, ngân hàng phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký trừ khi có những sai phạm của khách hàng khi thực hiện hợp đồng.

- Đặc điểm của cho vay tiêu dùng:

+ Đặc điểm về khách hàng vay: Khách hàng mục tiêu của NHTM đối với loại CVTD là các cá nhân và hộ gia đình. Đối tượng của CVTD rất đa dạng, bên cạnh đó mức thu nhập và trình độ dân trí cũng có tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Có thể khái quát thành các nhóm đối tượng khách hàng vay như sau: (i) Nhóm đối tượng có thu nhập thấp: Những người có thu nhập thấp thì thông thường nhu cầu vay để tiêu dùng không cao và bị giới hạn bởi thu nhập, việc vay vốn chỉ nhằm cân đối giữa thu nhập và chi tiêu. (ii) Nhóm đối tượng có thu nhập trung bình: Nhóm đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích luỹ, dự phòng của mình để chi tiêu. Do đó nhóm đối tượng này có nhu cầu vay vốn tăng mạnh so với nhóm đối tượng có thu nhập thấp. (iii) Nhóm đối tượng có thu nhập cao: Nhóm đối tượng này vay tiêu dùng nhằm tăng khả năng thanh toán và coi đó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền tích luỹ của họ chưa cao hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Đây là nhóm đối tượng



có những khoản tiêu dùng lớn và thường xuyên. Vì vậy các NHTM cần dùng những biện pháp thích hợp để tiếp cận và mở rộng nhóm đối tượng này.

+ Đặc điểm về mục đích vay: nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hộ gia đình như: mua nhà, xây dựng, sửa chữa nhà ở, mua sắm vật dụng gia đình, du học… không phải mục đích kinh doanh.

+ Đặc điểm về quy mô khoản vay: Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn lắm. Đó là bởi khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì người tiêu dùng đã phải có một khoản tích luỹ từ trước và các nhu cầu chi tiêu cho tiêu dùng thường không quá đắt đỏ, kể cả khi người tiêu dùng vay để mua nhà, xây nhà hoặc sửa chữa nhà để ở thì qui mô các khoản đó cũng không quá lớn đối với một ngân hàng. Tuy vậy, số lượng các khoản vay tiêu dùng lại khá phổ biến, đa dạng và chiếm tỷ trọng không nhỏ do đối tượng của CVTD là mọi tầng lớp dân cư trong xã hội và có nhu cầu vay vốn thường xuyên nên mặc dù mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn khiến cho tổng quy mô CVTD của các ngân hàng thường khá lớn.

+ Đặc điểm về thời hạn vay: Các khoản vay tiêu dùng thường có thời hạn dài do nguồn trả nợ chủ yếu từ thu nhập hàng tháng của người vay.

+ Đặc điểm về lãi suất cho vay: Không như hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay lãi suất có thể thay đổi theo điều kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất ở một mức cố định, đặc biệt là trong CVTD trả góp. Ngay khi quan hệ tín dụng được xác lập thì mức lãi suất đã được đưa ra và duy trì trong suốt thời hạn vay (kể cả có thay đổi lãi suất thì việc thay đổi đó cũng được qui định ngay trong hợp đồng tín dụng khi ký kết và cũng chỉ được thay đổi định kỳ). Vì vậy khi đưa ra mức lãi suất cho vay cố định này các ngân hàng sẽ phải dự tính đến các yếu tố: lãi suất huy động đầu vào có xu hướng thay đổi như thế nào; phần bù rủi ro và chi phí. Tuy qui mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn nên tổng chi phí lớn, bên cạnh đó CVTD còn được xem là tiềm ẩn nhiều rủi ro nên phần bù rủi ro cũng khá cao. Vì thế, lãi suất CVTD thường cao và cố định [1].

+ CVTD có tính nhạy cảm theo chu kỳ: Do số lượng các khoản CVTD phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của dân cư và khả năng thanh toán của họ nên nó có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Số lượng các khoản CVTD sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát triển vì lúc này người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh tế xã hội lạc quan. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, rất



nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không tin tưởng vào tương lai, nhất là khi họ thấy thu nhập giảm xuống. Vì vậy, mọi người có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng, do đó việc vay ngân hàng nói chung và vay tiêu dùng nói riêng sẽ hạn chế, làm cho số lượng các khoản CVTD giảm xuống trầm trọng.

+ Đặc điểm về nguồn trả nợ: Hầu hết nguồn tài chính trả cho các khoản CVTD không phải từ kết quả của việc sử dụng những khoản tiền vay đó, nói cách khác việc sử dụng tiền của người vay không trực tiếp là nguồn trả nợ. Nguồn trả nợ của khoản vay từ thu nhập của người vay, đó có thể là lương, thu nhập từ hoạt động kinh doanh, các nguồn thu nhập khác… Khi các nhu cầu tiêu dùng được đáp ứng bằng khoản tiền vay sẽ tạo tâm lý tiết kiệm, tăng động lực làm việc của khách hàng. Đây là ý nghĩa gián tiếp của vay tiêu dùng ảnh hưởng đến thu nhập (là nguồn trả nợ) của người vay.

+ Đặc điểm về chi phí quản lý khoản vay tiêu dùng lớn: Các ngân hàng thường phải tốn nhiều thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin về chủ thể vay vốn trước khi đưa ra các quyết định phê duyệt khoản vay, thêm vào đó, việc quản lý các khoản vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn cũng không phải là một vấn đề đơn giản đối với các NHTM nên chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ CVTD cao hơn so với các loại hình cho vay khác.

+ Rủi ro trong cho vay tiêu dùng thường cao do tình hình tài chính của cá nhân, hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỳ theo tình trạng công việc hay sức khoẻ của họ. CVTD chịu tác động của các yếu tố khách quan như thiên tai, bệnh tật, mất mùa, thất nghiệp và chu kỳ kinh tế. Thời kỳ nền kinh tế mở rộng và mọi người dân đều lạc quan tin tưởng vào tương lai thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng khi nền kinh tế suy thoái, các cá nhân, hộ gia đình thường có tư tưởng phòng bị cho tương lai, họ sẽ hạn chế tiêu dùng và tăng cường tích luỹ. Đây là thời kỳ khó khăn cho các nhà sản xuất và các ngân hàng trong phát triển các sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, CVTD còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan từ phía người tiêu dùng khi họ muốn vay mượn để chi tiêu nhưng không muốn trả. Tuy nhiên, hầu hết các khoản CVTD đều có tài sản bảo đảm và mức cho vay thường thấp hơn một mức quy định so với giá trị tài sản bảo đảm được ngân hàng định giá. Do vậy, nếu rủi ro xảy ra, ngân hàng vẫn có thể thu hồi được nợ, dù thời gian có thể kéo dài hơn và thủ tục phức tạp hơn.



Một loại rủi ro khác ngân hàng có thể phải đối mặt là rủi ro lãi suất khi chi phí huy động tăng lên do các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất “cứng nhắc” (đặc biệt là cho vay trả góp).

Việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản CVTD thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ. Các thông tin của cá nhân thường không rõ ràng và minh bạch như báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi doanh nghiệp có các báo cáo tài chính được kiểm toán thì khách hàng cá nhân và hộ gia đình có thể dễ dàng giữ kín các thông tin về triển vọng công việc cũng như tình hình sức khoẻ của mình.

+ Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng: Do rủi ro và chi phí CVTD lớn nên các ngân hàng thường đặt mức lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Việc đặt ra mức lãi suất CVTD phải đáp ứng được mức lợi nhuận dự kiến và cả phần bù rủi ro. Mức lãi suất này thường được đưa ra cao đến mức mà chi phí và tỷ lệ tổn thất phải tăng lên đáng kể thì các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận và hiệu quả cho ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng nắm bắt tâm lý của người tiêu dùng khi vay tiền thường kém nhạy cảm với lãi suất mà thường quan tâm nhiều hơn tới khoản tiền họ phải trả hàng tháng (mặc dù rõ ràng là lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến qui mô số tiền phải trả). Việc đưa ra một lịch trả nợ phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng trong một kỳ hạn nhất định sẽ là yếu tố mang tính quyết định trong việc chấp thuận vay vốn. Chính vì triển vọng về lợi nhuận do hoạt động CVTD mang lại mà dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhưng các ngân hàng trên toàn thế giới hiện nay đều hướng sự quan tâm vào hoạt động này, coi nó như một trong những lĩnh vực có vai trò chủ đạo trong dịch vụ cũng như trong quản lý ngân hàng.

+ Một đặc điểm nữa của CVTD là người vay thường chỉ vay một lần, ít khi có nhu cầu vay lại như các khoản cho vay thương mại: nhu cầu phát sinh theo chu kỳ kinh doanh, lặp đi lặp lại. Do đó, nếu không có các giải pháp mở rộng CVTD thì ngân hàng sẽ mất dần đi nguồn khách hàng tiềm năng này.

1.1.2.2. Đối tượng vay tiêu dùng

- Đối tượng vay tiêu dung, là những cá nhân, hộ gia đình người Việt Nam thỏa mãn những yêu cầu mà ngân hàng và luật pháp đề ra. Cá nhân: cán bộ, nhân viên chức…



+ Hộ gia đình: Là tập hợp các thành viên có tài sản chung để hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của phát luật. Chủ hộ là người đại diện cho hộ gia đình để giao dịch với ngân hàng.

+ Cá nhân: Là những cá nhân có đầy đủ năng lực pháp luật, dân sự và năng lực hành vi dân sự trong quy định của pháp luật,

- Có thu nhập ổn định, đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng.

- Có tài sản thế chấp, cầm cố dùng để đảm bảo thuộc sở hữu của chính người vay hoặc thân nhân có tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh của bên thứ 3 hoặc không có tài sản thế chấp cho vay không có tài sản thế chấp theo quy định của ngân hàng.

- Có mục đích sử dụng vốn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hợp pháp

- Có nhiều cách phân loại đối tượng khác nhau, cách phổ biến nhất chia nhóm dựa trên khả năng tài chính của khách hàng:

+ Nhóm đối tượng khách hàng có thu nhập thấp: Với nhóm đối tượng này thì nhu cầu thường không cao, việc vay vốn chỉ để cân bằng giữa thu nhập và chi tiêu.

+ Nhóm đối tượng có thu nhập trung bình: Nhu cầu vay tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh, khách hàng thuộc nhóm đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là bỏ ra khoản tiết kiệm dự phòng của mình.

+ Nhóm đối tượng có thu nhập cao: Nhu cầu vay tiêu dùng nảy sinh nhằm làm tăng khả năng thanh toán và coi như một khoản phụ trợ linh hoạt để chi tiêu khi tiền vốn tích lũy của hộ đang được đầu tư trung và dài hạn. Hay nói cách khác, các khoản vay tiêu dùng này được coi là nguồn ứng trước của lợi nhuận do đầu tư mang lại. Những người thuộc nhóm này thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn.

1.1.2.3. Các hình thức cho vay tiêu dùng

- Căn cứ vào phương thức cho vay:

+ Cho vay tiêu dùng trả góp: là khoản cho vay mà người vay phải trả nợ vay (cả tiền gốc và lãi) cho ngân hàng thành nhiều kỳ liên tiếp như đã thỏa thuận (thường là tháng hay quý).

+ Cho vay tiêu dùng từng lần: là khoản cho vay mà người đi vay chỉ thanh toán một lần với ngân hàng (cả tiền gốc và lãi) vào lúc đáo hạn hợp đồng theo thỏa thuận của hai bên. Thông thường đây là những khoản vay có quy mô vốn nhỏ, đi kèm với thời gian ngắn và sử dụng cho những mục đích chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí…



+ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng nhất định bằng cách sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.

- Căn cứ vào hình thức cho vay:

+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là việc ngân hàng thực hiện phát vay trực tiếp cho người đi vay một số tiền mặt nhất định nhằm mục đích tiêu dùng. Và định kỳ người vay phải trả một số tiền theo quy định cho ngân hàng. CVTD trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ sau: (Hình 1.1)

(5)

Khách hàng vay tiêu dùng

(2)

(4)

Người bán hàng

Ngân hàng

(3)


(1)



Chú thích:

Hình 1.1: Sơ đồ cho vay tiêu dùng trực tiếp

Nguồn: nghiên cứu của tác giả năm 2013

(1) Ngân hàng và khách hàng vay tiêu dùng ký kết Hợp đồng tín dụng

(2) Khách hàng vay trả trước một phần số tiền mua tài sản cho người bán hàng

(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho người bán hàng

(4) Người bán hàng giao tài sản cho khách hàng vay.

(5) Khách hàng vay thanh toán nợ vay cho ngân hàng.

Ưu điểm của CVTD: (i) Trong CVTD trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được kiến thức và kỹ năng của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có kinh nghiệm cho vay nên các quyết định cho vay của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi công ty bán lẻ. Ngoài ra, nhân viên tín dụng thường có xu hướng tạo ra những khoản vay có chất lượng cao trong khi nhân viên của công ty bán lẻ lại chú trọng tăng doanh thu bán



hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với những khách hàng tốt. Nếu người quyết định tín dụng là nhân viên ngân hàng thì điều này có thể được hạn chế. (ii) CVTD trực tiếp linh hoạt hơn so với CVTD gián tiếp. (iii) Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền lợi của cả hai phía ngân hàng và khách hàng. (iv) Thông qua CVTD trực tiếp, ngân hàng có thể bán các sản phẩm khác, tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng…

Mặc dù sự phân chia nói trên chỉ mang tính tương đối song nó giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động CVTD, cũng như thấy được sự phong phú, đa dạng của loại hình dịch vụ này từ nhiều khía cạnh khác nhau.

+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là việc ngân hàng thay người vay trả tiền cho nhà sản xuất hay nhà cung ứng bán hàng hóa. Đây là hình thức phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức bán lẻ hàng hóa. Sau đó, định kỳ ngân hàng sẽ thực hiện thu nợ từ người vay. Thông thường CVTD gián tiếp thực hiện theo sơ đồ sau (Hình 1.2):


(6)

Ngân hàng

Người tiêu dùng

(5)

(2)

Công ty bán lẻ

(1)

(4)



Chú thích:


Hình 1.2: Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp

Nguồn: nghiên cứu của tác giả năm 2013

(3)

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và các loại tài sản bán chịu.

(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.

(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.

(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.

(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.

Xem tất cả 149 trang.

Ngày đăng: 03/07/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí