Khái Niệm Lợi Nhuận Và Nguyên Tắc Xác Định Lợi Nhuận

Thứ ba, đối với các khoản tiền hoặc tương đương tiền không được nhận ngay thì doanh thu được xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa của các khoản sẽ thu được trong tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu theo tỷ lệ lãi suất hiện hành. Giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu có thể nhỏ hơn giá trị danh nghĩa sẽ thu được trong tương lai. Vì thế nếu hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Ngược lại khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ khác không tương tự thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Còn theo TS. Mai Ngọc Anh (2011): "Doanh thu được ghi nhận khi doanh nghiệp đã chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa cho người mua hoặc doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cho người mua theo hợp đồng "[19, tr.23].

Tóm lại, doanh thu được ghi nhận khi bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ, là cơ sở xác định khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp đầu tư. Doanh thu chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: khách hàng, thời hạn thanh toán, các điều kiện thanh toán...Vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải có cơ chế quản lý doanh thu như thế nào để đảm bảo thu hồi vốn nhanh nhất, hiệu quả cao và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Căn cứ vào nguồn hình thành, doanh thu của doanh nghiệp bao gồm: Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động khác (hoạt động bất thường)[53] Cụ thể:

Doanh thu từ hoạt động kinh doanh: Đối với các loại hình hoạt động khác nhau, doanh thu cũng khác nhau:

Đối với các cơ sở sản xuất, khai thác chế biến...Doanh thu là toàn bộ tiền bán sản phẩm, nửa thành phẩm, bao bì, nguyên vật liệu

Đối với ngành xây dựng: Doanh thu là giá trị công trình hoàn thành bàn gia. Đối với ngành vận tải: Doanh thu là tiền cước phí

Đối với ngành thương nghiệp, ăn uống: Doanh thu là tiền bán hàng. Đối với hoạt động đại lý, ủy thác: Doanh thu là tiền hoa hồng

Đối với ngành kinh doanh dịch vụ: Doanh thu là tiền bán dịch vụ Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Doanh thu là phí bảo hiểm. Đối với hoạt động cho thuê: Doanh thu là tiền thuê

Đối với hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao...Doanh thu là tiền bán vé

Doanh thu từ hoạt động tài chính của doanh nghiệp là số tiền thu được từ hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn. Cụ thể như:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Doanh thu từ khoản đầu tư mua chứng khoán Doanh thu từ hoạt động đầu tư liên doanh.

Doanh thu từ hoạt động kinh doanh bất động sản Doanh thu từ hoạt động cho vay

Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam - 4

Doanh thu từ hoạt động cho thuê tài sản cố định dài hạn Doanh thu từ khoản chênh lệch bán ngoại tệ

Doanh thu từ tiền lãi do bán trả góp

Doanh thu từ việc hoàn nhập khoản chênh lệch dự phòng, giảm giá đầu tư tài chính

Doanh thu từ hoạt động bất thường của doanh nghiệp là khoản thu nhập không tính đến trong kỳ khi xây dựng kế hoạch tài chính nhưng trên thực tế vẫn phát sinh, bao gồm:

Doanh thu từ thanh lý, nhượng, bán tài sản cố định

Doanh thu từ tiền phạt, bồi thường do khách hàng vi phạm hợp đồng, kỷ luật

Doanh thu từ khoản nợ khó đòi đã xử lý ở kỳ trước, các khoản thu nhập kinh doanh năm trước bỏ sót năm nay mới phát hiện

Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và phải thu khó đòi.

Điều này cho thấy, việc xác định doanh thu của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà công ty đã đăng ký trên GCNĐKKD. Vì vậy, là một trong những loại hình doanh nghiệp điển hình, có nhiều ưu thế việc xác định doanh thu của CTCP cũng không nằm ngoài những “ngoại lệ” trên.

* Đặc điểm doanh thu

Từ những khái niệm và phân tích nêu trên có thể khái quát doanh thu của doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng với những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, doanh thu là chỉ tiêu tài chính phản ánh tổng giá trị được tính bằng tiền của hàng hóa và dịch vụ đã tiêu thụ trong một thời gian nhất định của doanh nghiệp. Cụ thể được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.

Thứ hai, doanh thu góp phần tăng vốn tự có của chủ sở hữu nhưng không bao gồm khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu.

Thứ ba, doanh thu liên quan trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu, nhà đầu tư cũng như chủ nợ.

Do đó việc quản lý doanh thu đối với CTCP theo Luật kế toán, pháp luật thuế có đặc thù như sau:

Theo Luật kế toán năm 2003, doanh thu của CTCP được phản ánh đầy đủ thông qua chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính và được tổng hợp trong bảng cân đối kế toán khi kết thúc năm tài chính.

Theo pháp luật về quản lý thuế, CTCP tồn tại dưới bất kì hình thức nào đều phải tuân thủ quy định của pháp luật về thuế. Hay nói cách khác "Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân". Theo đó, việc xác định CTCP phải thực hiện nghĩa vụ đó như thế nào còn phụ thuộc vào đặc thù của hoạt động kinh doanh. Đối với CTCP việc quản lý doanh thu theo quy định của pháp luật thuế thể hiện qua việc thực hiện nghiêm túc quy định về kê khai, tính thuế và nộp thuế.

Theo quy định của Luật quản lý thuế hiện hành, cũng như các doanh nghiệp khác, CTCP có nghĩa vụ sau đây [Điều 7, 18]:

Đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật.

Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế.

Nộp tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm.

Chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Ghi chép chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và giao dịch phải kê khai thông tin về thuế.

Lập và giao hoá đơn, chứng từ cho người mua theo đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật.

Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu và nội dung giao dịch của tài khoản mở tại ngân

hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế.

Chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật.

Chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định.

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2013 quy định, CTCP thuộc đối tượng phải nộp thuế [điểm a Khoản 1 Điều 2, 17]. Theo đó, thu nhập chịu thuế của CTCP sẽ bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ và thu nhập khác như chuyển nhượng vốn, thu nhập từ chuyển nhượng, cho vay vốn...

Khái niệm và đặc điểm về quản lý chi phí

* Khái niệm chi phí

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01- chuẩn mực chung (Ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính): “Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu” [Mục 31b].

Theo chế độ kế toán Việt Nam thì chi phí hoạt động của doanh nghiệp chính là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Nghĩa là các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.

Từ những khái niệm trên cho thấy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy

móc, thiết bị, trả công cho người lao động...Do vậy, có thể hiểu chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để duy trì hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn với hoạt động của doanh nghiệp. Có nhiều cách phân loại chi phí khác nhau [53] Cụ thể:

* Dựa vào các yếu tố chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:

Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực (gọi tắt là chi phí vật tư).

Chi phí này phụ thuộc vào yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.

Chi phí khấu hao tài sản cố định. Chi phí này được xác định dựa vào nguyên giá tài sản cố định và nguyên giá tài sản cố định cần khấu hao và tỷ lệ tính khấu hao tài sản cố định.

Chi phí tiền lương của các khoản phụ cấp có tính chất lượng. Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn Chi phí dịch vụ mua ngoài

Thuế và chi phí khác

* Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí, chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành các khoản mục chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.

Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm:

Chi phí vật tư trực tiếp: Là chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.

Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ.

Chi phí sản xuất chung: Là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như: Chi phí vật liệu, khấu hao tài sản cố định...

Chi phí gián tiếp bao gồm:

Chi phí bán hàng: Các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ như: Tiền lương, các khoản phụ cấp, tiếp thị, chi phí bảo hành, quảng cáo...

Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác chung cho toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, công tác phí...

* Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: Các khoản chi phí và các khoản lỗ có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính như:

Chi phí hoạt động liên doanh liên kết Chi phí thiệt hại do kinh doanh thua lỗ Chi phí mua bán chứng khoán

Lãi phải trả về vay vốn đầu ta tài chính

Trích thêm số chênh lệch dự phòng giảm giá đầu tư tài chính...

* Chi phí hoạt động bất thường gồm: Những khoản chi phí phát sinh khách quan khi xây dựng kế hoạch tài chính doanh nghiệp chưa tính đến như:

Giá trị còn lại của tài sản cố định khi thanh lý, nhượng bán Bị phạt do vi phạm hợp đồng

Bị phạt truy nộp thuế

Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ...

Từ những khái niệm chi phí nêu trên, có thể khái quát chi phí có những đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, chi phí là hao phí tài nguyên (kể cả hữu hình và vô hình), vật chất, lao động.

Thứ hai, những hao phí này phải gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ ba, phải định lượng được bằng tiền và được xác định trong một khoảng thời gian nhất định.

Về đặc thù đối với quản lý chi phí trong CTCP cũng được xác định tương tự dựa trên hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Mà theo như TS. Mai Ngọc Anh (2011): "Chi phí được ghi nhận khi có sự suy giảm thực tế giá trị của tài sản mà doanh nghiệp có quyền sở hữu hoặc phát sinh các nghĩa vụ pháp lý phải thanh toán dẫn đến giảm vốn chủ sở hữu" [19, tr.23].

1.2.2. Khái niệm lợi nhuận và nguyên tắc xác định lợi nhuận

Khái niệm

Dưới góc độ kinh tế, theo TS. Bùi hữu Phước: "Lợi nhuận của doanh nghiệp là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp cuối cùng của hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp". Lợi nhuận được xác định là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được doanh thu từ các hoạt động kinh doanh. "Về mặt pháp lý, lợi nhuận là khoản thặng dư phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp và thuộc đối tượng bị đánh thuế, trích lập để lại doanh nghiệp và phân chia cho người góp vốn "[26, tr.134].

Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2013, lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng dưới thuật ngữ pháp lý “thu nhập doanh nghiệp”. Trước khi luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1993 được ban hành, lợi nhuận của doanh nghiệp được gọi là lợi tức thuộc đối tượng bị đánh thuế theo luật thuế lợi tức được ban hành năm 1990. Thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2013 bao gồm: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập khác. Cho nên lợi nhuận của doanh nghiệp vừa là đối tượng quản lý kế toán trong doanh nghiệp vừa là đối tượng quản lý thuế.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí