Khái Niệm Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Xã Hội

việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về DNXH sẽ góp phần tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho việc tổ chức, hoạt động DNXH phát triển lành mạnh.

Ba là, khi có sự điều chỉnh của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến DNXH sẽ được đảm bảo trên thực tế, ngăn ngừa tình trạng vi phạm của các bên trong quá trình thực hiện hoạt động của DNXH.

Việc xây dựng một hành lang pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh lành mạnh của các DNXH cũng như DN thông thường, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng và có hiệu quả, tạo một môi trường kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp là đặc biệt cần thiết. Pháp luật khuyến khích mọi doanh nghiệp đầu tư phát triển, tạo ra nhiều hàng hóa đa dạng, phong phú cung cấp cho thị trường.

Vì vậy, việc quy định cụ thể rõ ràng quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan đến DNXH để các bên có cơ hội thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ bình đẳng, hợp pháp của mình.

Bốn là, một khi các hoạt động của DNXH ở trong tình trạng thiếu minh bạch, DNXH thiếu một khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh, khi đó, sẽ là môi trường thuận lợi cho các hành vi tiêu cực, các chủ thể cố tình tạo ra các DNXH “bình phong” sau đó tiến hành kinh doanh nhằm trục lợi... Do đó, để khắc phục tình trạng trên có thể xảy ra, rất cần thiết phải điều chỉnh hoạt động của DNXH. Từ tất các các lý do và lập luận ở trên có thể thấy việc xây dựng pháp luật về DNXH là thực sự cần thiết.

Cụ thể, Chính phủ Anh đã đi đầu và đưa ra khái niệm về DNXH cũng như chiến lược phát triển DNXH từ năm 2002. Vào năm 2005, Công ty vì lợi ích cộng đồng (CIC)

– một loại hình pháp lý mới của doanh nghiệp dành riêng cho DNXH được quy định, đây là một loại hình doanh nghiệp duy nhất được bổ sung trong 100 năm qua ở Vương Quốc Anh. Theo quy định này, các DNXH có thể lựa chọn đăng ký dưới hình thức CIC nhưng không bắt buộc. Ở Mỹ, Chính phủ liên bang thành lập Văn phòng Sáng kiến xã hội với sự tham gia của công dân, hoạt động như một tổ chức phi lợi nhuận, đồng thời cũng tạo lập một loại hình doanh nghiệp mới là Công ty lợi nhuận thấp (L3C) cho các DNXH. Ở Châu Á, năm 2007, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật phát triển DNXH và thiết lập Ủy ban hỗ trợ DNXH trực thuộc Bộ Lao động để điều phối các chương trình khuyến khích, hỗ trợ DNXH. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng là một trong số những quốc gia ban hành chính sách tích cực nhất để hỗ trợ DNXH, Chính phủ Thái Lan thành lập Ủy ban Khuyến khích DNXH thuộc Văn phòng thủ tướng từ năm 2009, Văn phòng Thái Lan về DNXH trực tiếp nghiên cứu, lập chính sách phát triển DNXH từ năm 2010. Một bản Chiến lược phát triển, Nghị định về DNXH đã được ban hành năm 2010-2011, và

Dự thảo Luật Khuyến khích DNXH đã được xem xét để có hiệu lực vào giữa năm 2018.

Theo xu hướng của các quốc gia phát triển trên thế giới, Chính phủ Việt Nam cũng đã nhận thức được việc cần chia sẻ các trách nhiệm xã hội với các cá nhân, tổ chức để có thể tạo nên một xã hội “khỏe mạnh” và tiến tới mục tiêu phát triển bền vững. Trước khi DNXH được quy định tại Điều 10 của Luật doanh nghiệp 2014, sự tồn tại của các DNXH đã hoàn toàn được xác lập. Tuy nhiên, những tổ chức này không có một địa vị pháp lý rõ ràng dưới danh nghĩa một thực thể DNXH mà là được thành lập và hoạt động như những doanh nghiệp truyền thống, gánh vác mục tiêu xã hội và phải làm đầy đủ các nghĩa vụ tài chính như doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận truyền thống hoặc thành lập và tồn tại dưới dạng các quỹ, các tổ chức phi lợi nhuận, NGOs… hoạt động dựa vào tài trợ. Do đó, các doanh nghiệp này sẽ rất khó tồn tại lâu dài để đạt được mục tiêu.

Như vậy, rõ ràng, đã đến lúc để Chính phủ cần coi các DNXH như những đối tác chia sẻ gánh nặng, giúp Chính phủ thực hiện các mục tiêu xã hội. Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo lập khung khổ pháp lý, chính thức công nhận, và đề ra các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ các DNXH, cũng như thể chế thực hiện các chính sách đó là vô cùng cần thiết để tạo điều kiện tốt nhất cho các chủ thể có thể tự tin thành lập doanh nghiệp và bảo đảm thực hiện các trách nhiệm xã hội mà nó hướng đến, thực hiện trách nhiệm trong việc công khai minh bạch các khoản vốn cũng như khoản đầu tư, tài trợ. Để làm được điều đó thì cần đến các yếu tố đặc thù của mô hình này, để góp phần tạo nên hệ sinh thái lành mạnh, tạo điều kiện cho DNXH phát triển như nhiều quốc gia trên thế giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

2.2.2. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp xã hội

Pháp luật về DNXH là một lĩnh vực pháp luật mới, không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới, từ các quốc gia phát triển đến các quốc gia đang phát triển. Quá trình phát triển kinh tế, sự gia tăng và bùng nổ dân số đang ngày càng gây ra những sức ép lớn tại nhiều cộng đồng xã hội. Các quốc gia ngày nay bị buộc phải đối mặt với sự đánh đổi giữa phát triển kinh tế, đảm bảo nhu cầu cuộc sống dân cư với các vấn nạn xã hội như tỷ lệ thất nghiệp cao, tệ nạn xã hội gia tăng... Trong quá trình đó, các quốc gia, các tổ chức, các cá nhân ngày càng nhận ra rằng cần phải nâng cao ý thức của người dân về trách nhiệm đối với xã hội. Chính vì thế, đã có rất nhiều hành động, biện pháp nhằm chung tay giải quyết các vấn đề xã hội và một trong số đó là DNXH. Lĩnh vực pháp luật về DNXH đã ra đời với tư cách là một lĩnh vực pháp luật độc lập, và ngày càng được chú trọng không chỉ trong bình diện quốc gia mà còn trên bình diện thế giới. Một khái niệm khi được tiếp cận bằng các phương pháp khác nhau sẽ đưa ra những đáp

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 9

án khác nhau, và khái niệm “pháp luật” cũng vậy. Ví dụ, Claude Frédéric Bastiat cung cấp một định nghĩa theo trường phái tiếp cận dưới góc độ rộng, theo đó cho rằng: “Pháp luật là tổ chức để bảo vệ hợp pháp các quyền tự nhiên. Đây là dùng lực lượng chung thay thế cho lực lượng của cá nhân. Và lực lượng chung này chỉ làm những việc mà lực lượng của cá nhân có quyền tự nhiên và hợp pháp để làm: bảo vệ con người, bảo vệ quyền tự do và tài sản; để giữ gìn quyền của mỗi người và làm cho công lý ngự trị trên tất cả chúng ta” [83, tr.46]. Tuy nhiên, nếu được hiểu theo nghĩa hẹp, pháp luật là “hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [45].

Từ thực tiễn lập pháp của các quốc gia trên thế giới và Việt Nam có thể nhận định rằng, do nội hàm của khái niệm DNXH rất rộng và lịch sử phát triển của pháp luật về DNXH chưa dài nên việc đưa ra định nghĩa đầy đủ về pháp luật về DNXH là rất khó khăn, tuy vậy có thể hiểu rằng: “Pháp luật về DNXH là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động, tổ chức, quản lý DNXH trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm mục đích đạt được mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế.”

Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Chính vì vậy, mọi thành phần kinh tế, mô hình doanh nghiệp đều được tạo điều kiện phát triển như nhau. Nền kinh tế thị trường là một cơ chế xã hội có tính hai mặt rất rõ ràng: một mặt cơ chế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân tìm cách tối ưu hóa sản xuất kinh doanh để thu được nhiều lợi nhuận; Mặt khác cũng là nơi khoảng cách giàu nghèo được phơi bày, việc đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội tối thiểu cho nhóm người kém sức cạnh tranh như người tàn tật, khó hòa nhập, các cộng đồng dân cư nghèo, vùng sâu vùng xa… trở nên khó khăn, quá tải so với khả năng ngân sách nhà nước. DNXH ra đời và hoạt động như một lực lượng cứu cánh cho các chính phủ trong sứ mệnh cùng các chính phủ chung tay gánh vác cộng đồng. Tại thời điểm hiện tại, pháp luật về DNXH được nhìn nhận dưới góc độ pháp luật về doanh nghiệp nói chung và thuộc bộ phận cấu thành của pháp luật về kinh doanh thương mại ở Việt Nam. Như vậy, pháp luật về DNXH ở Việt Nam bao gồm:

- Các quy định trực tiếp về DNXH chứa đựng trong LDN 2020 (thay thế cho LDN 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành như nghị định số 47/2021/ NĐ-CP ban hành ngày 01/4/2021 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của LDN (thay thế Nghị định số 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của LDN 2014;

- Các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy định có liên quan đến tổ chức và hoạt động của DNXH như Luật đầu tư, các luật thuế, Luật Thương mại…

2.2.3. Nội dung pháp luật về Doanh nghiệp xã hội

Khi nghiên cứu về DNXH có thể thấy tại các quốc gia có lượng DNXH đáng kể đều có những quy định cụ thể thông qua việc thiết lập các tiêu chuẩn nhằm hỗ trợ DNXH. Có thể kể đến các bộ luật đặc biệt dành cho DNXH như Community – Interest Company của Anh, và Low-Profit Limited Liability Company của Hòa Kỳ, ngoài ra các quốc gia như Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc cũng có những đạo luật riêng quy định về DNXH. Tại Việt Nam, hiện nay chưa có luật riêng nhưng DNXH cũng đã được đề cập trong LDN 2014 và LDN 2020. Do đây là một lĩnh vực mới nên với xu thế lập pháp hiện đại, pháp luật về DNXH hầu hết được ghi nhận bằng hình thức văn bản quy phạm do Nhà nước ban hành. Về nội dung, pháp luật về DNXH bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình thành lập doanh nghiệp; quá trình hoạt động, tổ chức, quản lý DNXH, cụ thể là:

- Về Chủ thể:

Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật DNXH có thể được sơ đồ hóa [120, tr. 9], bao gồm: Chủ sở hữu/Nhà đầu tư; Nhà tài trợ/Nhà đầu tư; Khách hàng; Đối tượng thụ hưởng; Nhân viên/Nhà quản trị. Trong đó, mũi tên một chiều được sử dụng để chỉ hoạt động trợ cấp, giống như một giao dịch tặng-cho, không phải là quan hệ có đi có lại; mũi tên hai chiều được sử dụng để biểu thị mối quan hệ giao dịch tương hỗ. Qua đây, bản chất “lai ghép” giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của DNXH được thể hiện đầy đủ.

Khách hàng

Chủ sở hữu/ Nhà đầu tư

Đối tượng thụ hưởng

Nhân viên/ Nhà quản trị


Doanh nghiệp xã hội

Nhà tài trợ/ Nhà nước

Sơ đồ 1.3. Quan hệ pháp luật DNXH [120]

Cũng cần lưu ý rằng đối tượng thụ hưởng không nhất thiết phải là những cá nhân, tổ chức tách biệt, mà có thể thuộc bất kỳ nhóm khách hàng nào của công ty, các nhân viên hoặc nhà cung cấp. Bên cạnh đó, khoản trợ cấp cho công ty có thể đến từ nhà tài trợ, chính phủ hoặc bất kỳ khách hàng bảo trợ nào khác. Như vậy, sự xuất hiện của nhà nước ở đây, giống như một nhà tài trợ, hoàn toàn không được đặt trong mối quan hệ có tính chất hành chính-mệnh lệnh. Thực chất, nó là quan hệ đối tác nhà nước- tư nhân, trong đó “thể hiện một khuôn khổ có sự tham gia của khu vực tư nhân nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập vai trò của chính phủ đảm bảo đáp ứng các nghĩa vụ xã hội và đạt được thành công trong cải cách của khu vực nhà nước và đầu tư công” [166].

Có một thực tế được thừa nhận rộng rãi: DNXH có thể tạo ra những ảnh hưởng tích cực và bền vững đối với con người và môi trường hơn so với các doanh nghiệp vì lợi nhuận thông thường; đồng thời cũng tạo nên nhiều giá trị hơn so với các tổ chức phi lợi nhuận truyền thống, bởi nó sở hữu các biện pháp tài chính, kinh doanh hiệu quả và linh hoạt hơn [51].

- Tổ chức phi lợi nhuận truyền thống

Các ưu đãi của chính phủ và đặc thù trong tổ chức, quản lý công việc khiến nhiều DNXH muốn đăng ký cho mình địa vị pháp lý là một tổ chức phi lợi nhuận. Tuy nhiên, có ba vấn đề lớn khiến các DNXH phải cân nhắc thật kỹ.

Thứ nhất, để có được chế độ miễn thuế tương xứng dành cho các tổ chức phi chính phủ, các DNXH phải tiến hành chứng minh một số nội dung nhất định – một công việc không hề dễ dàng.

Thứ hai, tổ chức phi lợi nhuận gặp nhiều hạn chế trong việc sử dụng các công cụ tài chính, đó là bởi luật của các quốc gia thường cấm các cá nhân tham gia quản lý sử dụng tiền từ thiện hoặc lợi nhuận sinh ra nhờ đưa nguồn tiền từ thiện vào kinh doanh cho mục đích riêng, để đảm bảo không xảy ra tư hữu hóa tài sản trong tổ chức.

Cuối cùng, các chính phủ gần đây không còn tạo nhiều ưu đãi cho các tổ chức phi lợi nhuận như trước. Lý do đó là bởi vì có nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, trên cấp độ vĩ mô, các tổ chức phi lợi nhuận có xu hướng phản ứng chậm hơn với sự thay đổi nhu cầu của thị trường về loại dịch vụ mà họ cung cấp, đặt trong sự so sánh với các tổ chức vị lợi nhuận. Bên cạnh đó là sự thiếu hợp lý trong việc phân bổ tiền quỹ để trợ cấp cho các tổ chức phi lợi nhuận: các khoản trợ cấp cơ bản có xu hướng ủng hộ những dự án có tính mới mẻ và sáng tạo, bất chấp khả năng không hiệu quả và tốn kém, chứ không dành sự quan tâm đúng mực cho các chương trình đã được thử nghiệm, đáng tin cậy và hiệu quả [117].

- Tổ chức vị lợi nhuận truyền thống

Cân nhắc những trở ngại trong việc điều hành một DNXH như một tổ chức phi lợi nhuận, một số doanh nhân xã hội lại lựa chọn cách hoạt động như một tổ chức vị lợi nhuận. Tuy nhiên, lựa chọn này có những khó khăn riêng. Vấn đề lớn nhất trong số đó là việc huy động vốn. Cụ thể, lựa chọn hoạt động kinh doanh với mục đích xã hội thường gắn với những quyết định mà có thể làm giảm khả năng tạo ra lợi nhuận kinh tế. Ví dụ, doanh nghiệp sử dụng nhân công là những người khuyết tật có thể phải đối mặt với thực tế là chất lượng sản phẩm không cao. Điều đó dẫn đến kết quả là lãi suất của việc huy động vốn thông qua thị trường nợ có thể rất cao. Bên cạnh đó là những trở ngại trong tổ chức, quản lý doanh nghiệp. Nếu DNXH đăng ký dưới hình thức một công ty cổ phần, một khi đã phát hành cổ phiếu, hội đồng quản trị có nghĩa vụ phải hết sức chăm sóc lợi ích của các cổ đông. Việc đầu tư cho lợi ích xã hội dễ bị xem như mâu thuẫn với lợi ích của cổ đông, có thể làm giảm lợi tức kinh tế từ cổ phần của họ. Hơn nữa, các giám đốc của công ty do các cổ đông của công ty bầu ra có thể xem trọng lợi ích kinh tế của các cổ đông hơn là lợi ích xã hội – vốn là lý do mà doanh nghiệp được thành lập [114]. Do đó, khi một DNXH cần huy động khoản vốn lớn để thành lập doanh nghiệp, mô hình vị lợi nhuận đôi khi không phải là một sự lựa chọn phù hợp.

Tuy nhiên, đôi khi mô hình vị lợi nhuận và mô hình DNXH có thể là sự kết hợp thành công. Đó là khi các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua tiền quyên góp tư nhân, không phụ thuộc vào các khoản vay và thị trường vốn [117]. Một ví dụ nổi bật là Newman's Own, một tập đoàn vị lợi nhuận của Hoa Kỳ, bán các sản phẩm thực phẩm và sau đó tặng toàn bộ lợi nhuận sau thuế cho tổ chức từ thiện10. Tuy nhiên, loại cơ hội

và thành công này rất hiếm. Trong hầu hết các trường hợp khởi nghiệp của các DNXH, giống như các doanh nghiệp vị lợi nhuận khác, số tiền vốn cần vay thường nhiều hơn số tiền họ có thể tự trang trải, và lợi nhuận cần dùng trước hết để trả nợ hoặc để thu hút các cổ đông mua cổ phần.

Tóm lại, cả hai mô hình nhắc tới ở trên đều không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nhân xã hội trong thời đại hiện nay. Trên thực tế, đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng kết hợp các cấu trúc pháp lý truyền thống sẵn có để đáp ứng các “mục tiêu kép” của DNXH; ví dụ: một tổ chức phi lợi nhuận thành lập các công ty con, hoặc một công ty vị lợi nhuận thành lập các quỹ từ thiện. Tuy nhiên, đây là một quy trình đầy phức tạp, gây ra nhiều phí tổn trong việc quản lý hành chính. Để thúc đẩy sự phát triển của DNXH,


10 Kể từ khi ra mắt vào năm 1982, công ty này đã hiến tặng cho quỹ từ thiện 485 triệu đô la. Xem thêm về Newman's Own tại trang web của công ty này: http://www.newmansown.com/100-percent-profits-to-charity/(truy cập ngày 20/04/2017)

các nhà làm luật phải trao cho mô hình này một địa vị pháp lý tương xứng. Trên phạm vi toàn cầu, rất nhiều nền tư pháp đã công nhận DNXH như một hình thức tổ chức hoàn toàn mới mẻ.

Mặc dù các khái niệm về các mô hình liên quan đến DNXH có thể đã được các quốc gia khác đưa ra trước đây, nhưng tại Châu Âu, khái niệm về DNXH dường như lần đầu tiên xuất hiện ở Ý khi được quảng bá thông qua một tạp chí khoa học xuất bản năm 1990 với tên gọi Imeaway sociale. Khái niệm này được đưa ra vào thời điểm đó là tiền đề cho các sáng kiến tiên phong trong quá trình lập pháp của Quốc hội Ý về hợp tác xã xã hội (có thể hiểu là một mô hình của DNXH). Vào năm 1991, quốc hội Ý đã thông qua một đạo luật quy định một hình thức pháp lý cụ thể cho các hợp tác xã xã hội và sau đó tiếp tục có những quy định chi tiết trong đạo luật này về hoạt động của các hợp tác xã xã hội.

Luật Doanh nghiệp 2020 quy định bốn loại hình doanh nghiệp cơ bản: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hai chế độ trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu: trách nhiệm tài sản vô hạn và trách nhiệm tài sản hữu hạn. Các nhà làm luật Việt Nam cho rằng DNXH dù có mục đích thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu xã hội nhưng trước hết vẫn là doanh nghiệp. Do đó, chủ sở hữu khi thành lập phải lựa chọn một trong các mô hình được quy định trong Luật doanh nghiệp để đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và Đầu tư. Việc lựa chọn mô hình phù hợp là bước khởi đầu quan trọng cho mỗi nhà đầu tư, mô hình phù hợp với mục đích thành lập sẽ tạo tiền đề cho hoạt động của doanh nghiệp sau này. Ngoài ra, DNXH cần xác định rõ mục tiêu hoạt động và tỉ lệ lợi nhuận hàng năm dành cho mục tiêu đó thì mới đủ các điều kiện được ghi nhận là DNXH.

- Các quy định về quyền thành lập và trình tự thủ tục thành lập DNXH

Các quy định về quyền thành lập và trình tự thủ tục thành lập DNXH có nghĩa là các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.các loại hình của DNXH. Hầu hết trong các đạo luật về doanh nghiệp nói chung không giới hạn loại hình của DNXH so với doanh nghiệp truyền thống. Các loại hình tổ chức của DNXH có thể là: Công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh (tùy theo tên gọi khác nhau của mỗi quốc gia trên thế giới). Hầu hết các quy định pháp luật về thủ tục và trình tự thành lập của DNXH không có sự khác biệt so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, ở một số quốc gia cũng có những quy định khác biệt hơn, nhằm kiểm soát nguy cơ các DN trục lợi dưới vỏ bọc DNXH, việc kiểm soát trong quá trình hoạt động của các DNXH được quy định chặt chẽ hơn.

DNXH là tổ chức được thành lập nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và doanh nghiệp phải duy trì mục tiêu này trong suốt quá trình hoạt động. Điều này có nghĩa, mục tiêu lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của DNXH. Đây là điểm mấu chốt để phân biệt DNXH với doanh nghiệp truyền thống. Hơn nữa, theo nhận thức phổ biến hiện nay, DNXH là mô hình tổ chức, một loại hình doanh nghiệp đặc thù thiên về khái niệm (concept) nhiều hơn về địa vị pháp lý (legal status) [168]. Nếu bám sát vào yêu cầu phải đăng ký dưới hình thức công ty sẽ khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều mô hình hoạt động từ lâu đã như một công ty (cạnh tranh bình đẳng) nhưng không nhất thiết đăng ký dưới hình thức công ty. Một số tổ chức phi chính phủ (NGOs) khẳng định họ rất muốn chuyển sang hình thức công ty, nhưng chưa được bởi khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện, nhận thức về DNXH ở các cơ quan nhà nước và địa phương hầu như không có, và cả việc họ sợ mất các ưu đãi hiện có. Trên thực tế, rất nhiều DNXH xây dựng cho mình cả hai nhánh tổ chức riêng biệt, một NGO thực hiện các mục tiêu xã hội và một công ty kinh doanh tạo thu nhập chuyển về NGO.

DNXH không thể không có các hoạt động kinh doanh. Chính hoạt động kinh doanh là nét đặc thù cũng như thế mạnh của DNXH so với tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện chỉ đơn thuần nhận tài trợ và thực hiện các chương trình xã hội. Do đó, giải pháp kinh doanh là một nửa không thể thiếu của mô hình DNXH. Hơn thế nữa, DNXH phải cạnh tranh bình đẳng, công bằng với các doanh nghiệp truyền thống trong cùng lĩnh vực. Khác với các Quỹ từ thiện có thể kêu gọi lòng hảo tâm để các nhà tài trợ đóng góp hoặc mua sản phẩm gây quỹ cho tổ chức. Đơn cử như tổ chức Oxfam thường có các cửa hàng từ thiện bán sản phẩm đã qua sử dụng cho người thiện nguyện vừa mua hàng vừa đóng góp gây quỹ [34]. Đây có thể coi là một nhánh phần nào mang tinh thần doanh nhân xã hội nằm trong hệ thống Oxfarm. Tuy nhiên, Oxfarm vẫn là một tổ chức NGO, mà không phải là một DNXH, bởi hoạt động nền tảng của tổ chức vẫn đặt trên triết lý thiện nguyện (kể cả hoạt động nói trên) và dựa vào nguồn tài trợ từ thiện là chủ yếu.

Do đó, một doanh nghiệp thông thường dù thực hiện trách nhiệm xã hội cao đến đâu cũng không thể là DNXH bởi sự khác biệt rất rõ ràng về bản chất và mục đích của chủ sở hữu doanh nghiệp khi thành lập. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một phạm trù tiếp cận hoàn toàn khác, theo đó, đối với bất kỳ doanh nghiệp truyền thống, có mục đích tối ưu hóa lợi nhuận cũng đều có thể có trách nhiệm xã hội ít nhiều. Ngoài ra, như đã phân tích, do lịch sử để lại, có một số lượng các DNXH thực tế đang tồn tại dưới các hình thức linh hoạt có tính tương tác cao như các hợp tác xã, các tổ chức phi chính

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí