theo mô hình tổ chức mới không phải là quỹ từ thiện mà là DNXH với mong muốn dùng lợi nhuận thu được từ những hoạt động kinh doanh khắc phục được phần nào những khó khăn trên. Tại quốc gia này có khoảng hơn 80.000 DNXH được xếp vào các nhóm gồm: tổ chức NGO, hợp tác xã và doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành nghề như giáo dục, y tế, thương mại hàng tiêu dùng,…
2.1.3. Các loại hình tổ chức của doanh nghiệp xã hội
Theo nhiều nhà nghiên cứu, dù là loại hình doanh nghiệp nào chăng nữa, thì các DNXH có thể được phân loại thành các hình thức tổ chức sau:
a. DNXH phi lợi nhuận (Non-profit Social Enterprises)
Các DNXH phi lợi nhuận thường hoạt động dưới các hình thức như trung tâm, hội, quỹ, câu lạc bộ, tổ/nhóm tự nguyện của người khuyết tật, người chung sống với HIV/AIDS, phụ nữ bị bạo hành… Hầu hết các DNXH phi lợi nhuận được phát triển lên từ nền tảng NGO, bên cạnh đó cũng có một số xác định được mô hình ngay từ đầu khi thành lập. Do vậy, tuy rất giống với các tổ chức NGO truyền thống, những điểm khác biệt ở các doanh nghiệp phi lợi nhuận là khả năng đưa ra được những giải pháp mới và sáng tạo để giải quyết các vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm. Nói cách khác, họ đưa ra những giải pháp có tính cạnh tranh cao để giải quyết những nhu cầu xã hội cụ thể, do đó, có thể thu hút nguồn vốn đầu tư của những cá nhân và tổ chức đầu tư vì tác động xã hội.
b. DNXH không vì lợi nhuận (Not-for-profit Social Enterprises)
Đa số các doanh nghiệp loại này do các doanh nhân xã hội sáng lập, với sứ mệnh xã hội được công bố rõ ràng. Ngay từ đầu, doanh nghiệp đã xác định rõ sự kết hợp bền vững giữa sứ mệnh xã hội với mục tiêu kinh tế, trong đó mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt mục tiêu tối cao là phát triển xã hội. Lợi nhuận thu được chủ yếu để sử dụng tái đầu tư hoặc để mở rộng tác động xã hội của doanh nghiệp. DNXH không vì lợi nhuận thường đăng ký hoạt động dưới các hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp này đăng ký dưới hình thức công ty là họ không muốn xã hội nhìn nhận như đơn vị đi xin lòng từ thiện của cộng đồng. Họ nhìn thấy cơ hội tạo giá trị vật chất từ những hàng hóa và dịch vụ giàu nhân văn mà họ cung cấp cho cộng đồng. Bên cạnh đó, việc hoạt động như những công ty giúp họ tiếp cận được nguồn vốn và cơ hội kinh doanh đa dạng hơn là một tổ chức từ thiện đơn thuần. Tuy nhiên, do sứ mệnh xã hội mà họ theo đuổi, các DNXH loại này đối mặt với một số thách thức đặc thù so với các doanh nghiệp thông thường khác:
- Mục tiêu xã hội không cho phép họ tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi cách. Thay vào đó, phương châm của họ là tối ưu hóa lợi nhuận.
- Bên cạnh đó, những chi phí kinh doanh như những doanh nghiệp thông thường, DNXH phải chi những chi phí xã hội rất lớn.
- Do bản chất hỗn hợp của mình, DNXH thường có nguồn vốn đầu tư khá đa dạng. Bên cạnh vốn đầu tư thương mại thông thường, có thể tiếp nhận các nguồn vốn ưu đãi dưới dạng vay dài lãi suất thấp, vốn cổ tức xã hội, hay vốn tài trợ không hoàn lại. Mặc dù vậy, việc hiện chưa quy định rõ ràng trong việc tiếp nhận các khoản vốn tài trợ và vốn vay ưu đãi từ các nhà đầu tư xã hội đang làm cho các doanh nghiệp lúng túng trong việc giải trình thuế và hạch toán kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 5
- Vị Trí Của Dnxh Đối Với Tổ Chức Lai Và Doanh Nghiệp Thương Mại Theo Cách Định Nghĩa Của Ofer Eldar. [122]
- Chức Năng, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Doanh Nghiệp Xã Hội
- Khái Niệm Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Xã Hội
- Thực Trạng Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Xã Hội Ở Việt Nam Hiện Nay
- Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 11
Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.
- DNXH áp dụng thước đo hiệu quả khác với doanh nghiệp thông thường. Nên cạnh giá trị vật chất, giá trị xã hội mà nó mang lại cho cộng đồng là giá trị tối đa và cần được đo lường và ghi nhận cụ thể.
c. Doanh nghiệp có định hướng xã hội, có lợi nhuận (Social Business Ventures) Mô hình này đặc biệt phổ biến trong lĩnh vực tài chính vi mô với các ví dụ như Grameen Bank và BRAC ở Bangladesh, SKS Microfinance ở Ấn độ, Bina Swadaya ở Indonesia, KIVA ở Mỹ… Ở Việt Nam, chúng ta cũng có hàng ngàn tổ chức tài chính vi mô cơ sở mà điển hình nhất là có Quỹ TYM (Trung ương hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) và CEP (Liên đoàn lao động TP Hồ Chí Minh). Một số đặc điểm của các DNXH
loại này là:
- Khác với mô hình doanh nghiệp phi lợi nhuận và không vì lợi nhuận, các DNXH ở loại hình này ngay từ ban đầu đã nhìn thấy cơ hội và chủ trương xây dựng mình trở thành doanh nghiệp có lợi nhuận với sứ mệnh tạo động lực cho những biến đổi mạnh mẽ trong xã hội hoặc bảo vệ môi trường.
- Mặc dù có tạo ra lợi nhuận và cổ đông được chia lợi tức, nhưng các DNXH này không bị chi phối lợi nhuận. Nói cách khác, mục đích chính của nó không phải là tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ đông, thay vào đó là mục tiêu xã hội/môi trường mà mọi cổ đông đều chia sẻ giá trị chung. Một phần đáng kể lợi nhuận thu được dùng để tái đầu tư hoặc để trợ cấp cho các nhóm dân cư có thu nhập thấp khiến cho DNXH có thể tiếp cận và mang lại lợi ích cho nhiều người hơn [34, tr 46].
Doanh nghiệp thường tìm những nhà đầu tư quan tâm đến cả lợi ích vật chất và lợi ích xã hội. Họ ít sử dụng các khoản hỗ trợ không hoàn lại cho các hoạt động chính của doanh nghiệp. Các hoạt động xã hội loại này thường hoạt động dưới các hình thức như công ty TNHH, Hợp tác xã, Tổ chức tài chính vi mô.
Như vậy, qua các nghiên cứu về DNXH trên thế giới và tại Việt Nam, có thể nhận diện một số loại hình tổ chức chủ yếu của nhiều DNXH. Việc tìm hiểu các loại hình tổ chức DNXH sẽ góp phần làm rõ mục đích thành lập và phát triển, cũng như những chức năng khác của các loại hình này, để từ đó chính sách của Nhà nước sẽ có cách tiếp cận hiệu quả hơn đối với từng loại hình. Cụ thể, tựu chung lại có các loại hình tổ chức DNXH như sau:
- Tổ chức NGO;
- DNXH thuần túy (triển khai mô hình DNXH ngay từ khi thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty);
- Cấu trúc hỗn hợp giữa doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận (trong đó hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu để hỗ trợ hoạt động phi lợi nhuận);
- Các cơ sở ngoài công lập (bán công, dân lập, tư thục);
- Các doanh nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ công ích;
- Các tổ chức sự nghiệp có thu, tổ chức xã hội của nhà nước (hiệp hội, viện nghiên cứu, bệnh viện, trường học).
Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả để cập đến DNXH thuần túy (triển khai mô hình DNXH ngay từ khi thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty – phù hợp với quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2020 khi đưa ra khái niệm về DNXH), theo đó có thể nhận thấy một điểm cơ bản là DNXH trong nhóm này có thể lựa chọn các loại hình tổ chức như các tổ chức kinh doanh truyền thống. Các loại hình tổ chức của DNXH có thể là: Công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh… (tùy theo tên gọi khác nhau của mỗi quốc gia trên thế giới).
2.1.4. Nhu cầu phát triển của doanh nghiệp xã hội trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Và trong mỗi quốc gia lại có những biến thể khác nhau xuất phát từ quan điểm, trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội [151]. Nhu cầu phát triển của DNXH trong mỗi mô hình kinh tế thị trường là không giống nhau. Để đánh giá được nhu cầu này, cần quay trở lại chức năng, vai trò của DNXH. Theo đó chức năng chính của DNXH là chức năng xã hội, vậy có thể dự đoán rằng nền kinh tế thị trường nào có nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết thì nhu cầu phát triển của DNXH sẽ cao hơn. Một trong những quy luật trong kinh tế học và xã hội học đó là sự phát triển kinh tế sẽ đi liền với sự nảy sinh các vấn đề xã hội. Trong đó không thể tránh khỏi những khía cạnh tiêu cực của các vấn đề xã hội, vì vậy nhu cầu phát triển của DNXH trong nền kinh tế thị trường là rất cấp thiết.
Trong vài thập niên trở lại đây phong trào DNXH đã phát triển mạnh mẽ ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Hiện tại, không có số liệu chính xác bao nhiêu DNXH đang hoạt động tại bao nhiêu quốc gia bởi mô hình khái quát về DNXH tuy đã được nhận thức rộng rãi nhưng đi vào nội dung, tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại DNXH lại có nhiều quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia, thậm chí vào mục tiêu chính sách của từng chính phủ. Mặc dù vậy, qua các tài liệu nghiên cứu, có thể nói DNXH đang hoạt động mạnh mẽ ở tất cả các khu vực trên thế giới từ Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La Tinh, Trung Đông, Châu Phi, Châu Á. Phong trào DNXH được thúc đẩy lan rộng một cách nhanh chóng trên thế giới trong thời gian qua là nhờ một số tác nhân chủ chốt: Một là, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra, tạo điều kiện cho các doanh nhân xã hội kết nối, chia sẻ kiến thức, nguồn lực và nhân rộng mô hình DNXH vượt qua hạn biên giới quốc gia; Hai là, các giá trị nhân văn được thức tỉnh mạnh mẽ. Đây là thời kỳ người ta nói đến xã hội hậu công nghiệp và vai trò của xã hội dân sự. Hàng loạt cuộc vận động xã hội khác diễn ra như phong trào bảo vệ môi trường, thương mại công bằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, mục tiêu thiên niên kỷ, chỉ số phát triển con người; Ba là, sự xuất hiện của những nhà đầu tư xã hội tìm kiếm tác động xã hội thay cho lợi nhuận tài chính truyền thống. Họ tạo thành các mạng lưới liên quốc gia, tập hợp, chia sẻ, và hỗ trợ các DNXH trên phạm vi toàn cầu. Điều này đặc biệt có lợi cho sự phát triển DNXH ở các nước đang phát triển, vốn có nhu cầu lớn về vốn và nâng cao năng lực.
Ngay kể cả tại châu Âu, nhu cầu phát triển của DNXH dường như được quan tâm đáng kể thể hiện thông qua các chính sách công của Liên minh châu Âu. Một phân tích trong lĩnh vực này cho thấy tỷ lệ tài chính đến từ Liên minh châu Âu thấp về mặt định lượng, chủ yếu đến từ Quỹ xã hội châu Âu. Mặc dù về mặt định lượng thấp, trợ cấp châu Âu trong một số trường hợp là một yếu tố quan trọng trong sự xuất hiện và phát triển của các DNXH, đôi khi mở ra các kênh huy động nguồn lực mới ở cấp quốc gia. Loại hỗ trợ này đã giúp tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các DNXH mới hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện tại có cơ hội mở rộng hoặc củng cố các hoạt động của họ thông qua việc tham gia vào các chương trình như vậy. Ảnh hưởng của Ủy ban Châu Âu cũng xuất hiện thông qua việc xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về vấn đề việc làm, trong đó các khuyến nghị chính sách thị trường lao động tích cực chiếm một vị trí quan trọng và đôi khi được đưa ra cho các DNXH trong lĩnh vực hội nhập lao động. Điều này đã góp phần, ở một số quốc gia (như Bồ Đào Nha hoặc Ireland), vào việc phát triển các chương trình công cộng vì cộng đồng đặc biệt là đối tượng yếu thế.
Một lĩnh vực khác mà ảnh hưởng của Ủy ban châu Âu cũng rất quan trọng là quy định về hợp đồng cho các hoạt động công cộng. Thật vậy, ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ với các cơ quan công quyền (địa phương) là một nguồn lực quan trọng cho các DNXH. Các hoạt động này được quy định chặt chẽ bởi luật pháp châu Âu. Theo các nguyên tắc nhất định được xác định bởi luật pháp châu Âu, các quy tắc cụ thể phải được tôn trọng, nhưng các quy tắc này không loại trừ khả năng tính đến các khía cạnh xã hội trong các thủ tục giao kết hợp đồng trong lĩnh vực công. Thật vậy, hai tiêu chí được cho phép: Một là các cơ quan công quyền có thể trao hợp đồng cho bên đấu thầu với giá thấp nhất (tức là giá thầu với mức giá thấp nhất, với mức chất lượng yêu cầu, được chọn) hoặc họ có thể chọn trao hợp đồng đối với các ứng dụng đấu thầu có lợi nhất về kinh tế, tức là xem xét các tiêu chí khác ngoài giá cả (chẳng hạn như tiêu chí xã hội hoặc môi trường) trong quyết định mua hàng của họ. Ví dụ, họ có thể giới thiệu các điều khoản xã hội liên quan đến việc tích hợp các công nhân có hoàn cảnh khó khăn hoặc yêu cầu cung cấp dịch vụ cho các nhóm hoặc cộng đồng mục tiêu cụ thể.
Ý là quốc gia điển hình về các hoạt động như vậy: ngay từ năm 1991, một đạo luật đã được thông qua tại quốc gia này để bảo lưu một số hợp đồng công cộng cho các hợp tác xã xã hội. Mặc dù luật này phải được điều chỉnh lại sau sự phản đối của Ủy ban châu Âu bên cạnh chính sách cạnh tranh của mình, khả năng như vậy vẫn được duy trì và vẫn là một công cụ chính. Ở nhiều quốc gia khác, khung pháp lý điều chỉnh mua sắm công ít thuận lợi hơn cho các DNXH. Chẳng hạn, chế độ đấu thầu theo Luật Kiểm sát công của Thụy Điển ngăn cản các cơ quan chức năng xem xét các yếu tố xã hội; cách giải thích của Thụy Điển về luật mua sắm công của EU không cho phép đối xử ưu tiên cho các DNXH. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Ireland, Vương quốc Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, hay luật pháp đang phát triển ở các quốc gia khác (như Bỉ và Phần Lan), nơi đang xem xét đưa các điều khoản xã hội vào đấu thầu công khai. Thật vậy, thực tiễn quốc gia và khu vực trong vấn đề này tương đối đa dạng trên toàn Liên minh châu Âu. Cạnh tranh trên thị trường với các công ty vì lợi nhuận chỉ dựa trên các tiêu chí tài chính thường gây khó khăn cho các DNXH thường phải chịu chi phí do các công ty truyền thống xuất hiện, và một số trong đó yêu cầu các cơ quan công quyền phải tính đến khía cạnh xã hội của họ khi giao kết hợp đồng. Đây rõ ràng là một cuộc tranh luận quan trọng cho tương lai của các DNXH trên khắp châu Âu.
DNXH là một khái niệm mới ở Việt Nam. Trong giai đoạn trước đổi mới, Việt Nam cũng đã có một số mô hình có thể được coi là các DNXH, đó là các Hợp tác xã tạo việc làm cho người khuyết tật. Sau năm 1986, đường lối đổi mới và chính sách mở cửa
của Nhà nước đã thực sự tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, các tổ chức từ thiện, phát triển cộng đồng trong và ngoài nước. Từ giữa những năm 1990, một số DNXH thực thụ đã bắt đầu xuất hiện như trường Hoa Sữa, trung tâm đào tạo nghề KOTO tại Hà Nội, Mai Handicrafts tại TP Hồ chí Minh. Tuy nhiên, nhận thức xã hội vẫn in đậm sự tách bạch giữa hai loại hình doanh nghiệp vì lợi nhuận và các tổ chức không vì lợi nhuận, do đó, các DNXH chỉ mới phát triển ở mức độ đơn lẻ, quy mô hạn chế. Từ năm 2010, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, dòng vốn tài trợ có xu hướng giảm, không ít tổ chức phi lợi nhuận đã chuyển đổi thành DNXH để tìm hướng đi mới cho mình. Mặc dù ở thời điểm cuối năm 2014, sau khi LDN Việt Nam được ban hành, chính thức được thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, trên cả nước đã có ít nhất 200 tổ chức [78] được cho là đang hoạt động đúng theo mô hình DNXH và một trong các DNXH điển hình và tiên phong được biết đến rộng rãi là trung tâm đào tạo nghề KOTO. Rõ ràng, nhiều tổ chức được thành lập và hoạt động mà không biết bản thân mình là một DNXH, do đó số lượng DNXH thực tế ở nước ta còn có thể lớn hơn rất nhiều con số trên. Bên cạnh đó, trước khi LDN 2014 chính thức được thông qua, Việt Nam chưa có một văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động của DNXH cũng như chưa có một loại hình doanh nghiệp hay một địa vị pháp lý dành riêng cho DNXH. Các loại hình tổ chức pháp lý của DNXH đến thời điểm hiện nay chia làm hai nhóm chính là Doanh nghiệp hoạt động theo LDN; và Tổ chức xã hội (NGO) hoạt động theo một số văn bản dưới luật điều chỉnh các loại hình tổ chức tự nguyện của nhân dân, các hội, các quỹ từ thiện, quỹ xã hội, các tổ chức khoa học công nghệ [23]. Vì thế việc lựa chọn đi theo một khung khổ pháp lý nhất định là Doanh nghiệp hoặc tổ chức NGO cho một thực thể tổ chức mang đặc tính hỗn hợp của DNXH gây nên nhiều trở ngại trong quá trình thành lập, vận hành và phát triển của các DNXH.
Thực tế, ở Việt Nam, Nhà nước vẫn chưa đủ nguồn lực để giải quyết tất cả những vấn đề xã hội. Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2013 cho thấy, Việt Nam đã đạt tiến độ đáng kể trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói nghèo giảm từ 60% xuống còn 20,7% trong vòng 20 năm [42, tr.17]. Tuy nhiên, với tỷ lệ 20,7% dân số đói nghèo vẫn là một con số cao. Sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, nhiều tổ chức phi chính phủ, các nguồn viện trợ ODA sẽ rút dần khỏi Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu phát triển DNXH là rất cần thiết để tăng cường các nguồn lực cho giải quyết các vấn đề xã hội.
2.2. Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội
2.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về doanh nghiệp xã hội
DNXH là một mô hình DN mới, ra đời và tồn tại mang lại rất nhiều lợi ích cho cộng đồng. Khác với DN thông thường DNXH mang chức năng xã hội đặc trưng. Thực tế cho thấy, sự thành công của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào việc thỏa mãn khách hàng bằng cách sản xuất những sản phẩm mà họ muốn, và bán các hàng hóa và dịch vụ với giá cả có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải giải đáp một cách cẩn thận một trong những vấn đề quan trọng nhất mà mọi cơ chế kinh tế phải đối mặt: đó là làm thế nào để một xã hội có thể sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả nhất? Trong nền kinh tế thị trường, điều đó có nghĩa là làm sao đạt được giá trị đầu ra tối đa từ các yếu tố đầu vào mà các nhà sản xuất sử dụng. DNXH cũng cần phải thực hiện điều này, tuy nhiên nhóm người ra quyết định của DNXH sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đưa ra những quyết định trong hoạt động kinh doanh so với ban điều hành của DN thông thường, bởi lẽ họ sẽ phải cân nhắc yếu tố lợi nhuận và xã hội. Trên cơ sở vai trò quan trọng của DNXH, những lợi ích mà DNXH đem lại cần có sự can thiệp của thiết chế được bảo đảm trong xã hội đó chính là pháp luật.
Trong những thập kỷ qua, luật pháp của các quốc gia trên thế giới đã ngày càng dành nhiều sự quan tâm đến sự tác động của DNXH. Milton Friedman9 đã tuyên bố rằng việc cho rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận của chính nó đã không còn đúng với ngày nay nữa (Friedman 1970), một số sự thay đổi thái độ liên quan đến vai trò xã hội của doanh nghiệp đã xuất hiện kể từ những năm 1970 và điều này kéo theo hàng loạt sự phát triển về mặt pháp lý liên quan đến vấn đề này. Điển hình, Luật kinh doanh của Hoa Kỳ, Đạo luật Công ty năm 2006 của Vương Quốc Anh đã thông qua các đạo luật yêu cầu giám đốc xem xét các vấn đề xa hơn ngoài tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, đòi hỏi giám đốc công ty phải quan tâm một loạt các lợi ích của các bên liên
quan khi họ quảng bá thành công của công ty cho cổ đông [69, Điều 172 khoản 1, Nhiệm vụ thúc đẩy sự thành công của công ty]. Những lợi ích này bao gồm quyền lợi của nhân viên công ty cũng như những tác động của hoạt động của công ty đối với cộng đồng và môi trường. Các tòa án và nghị viện ở các quốc gia khác cũng đã sử dụng phương pháp tiếp cận giá trị cổ đông giống như một cách để đảm bảo rằng Giám đốc công ty không ưu tiên lợi nhuận bằng mọi giá [21, tr.15]. Năm 2011, Ủy ban châu Âu cũng đã xác định lại
9 Milton Friedman (1912-2006) là một nhà kinh tế học đạt giải Nobel người Mỹ, Wikiredia, https://en.wikipedia.org/wiki/Milton_Friedman
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có nghĩa là “trách nhiệm của các công ty đối với tác động của họ với xã hội” (ủy ban châu Âu 2011). Đây là một động thái đáng kể từ việc yêu cầu các công ty cung cấp hoạt động từ thiện đến việc yêu cầu các công ty quản lý các tác động tiêu cực tiềm ẩn và thực tế của họ đối với con người. Các công ty đã phải chịu một loạt các luật điều chỉnh tác động xã hội của họ, ví dụ trong các lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư của khách hàng, quyền của người lao động và tác động môi trường. Mặc dù vậy, những phát triển này được xem là không đủ đối với những người tìm cách khai thác tiềm năng của doanh nghiệp để giải quyết các vấn đề phát triển lớn của thế giới, chẳng hạn như nhà ở, tiếp cận nhu yếu phẩm cơ bản và việc làm cho những người yếu thế trong xã hội. Các DNXH được hiểu rộng rãi là các doanh nghiệp ưu tiên đạt được lợi ích xã hội và môi trường hơn là vì lợi nhuận cho chủ sở hữu, mô hình được cho là có tiềm năng tạo ra sự khác biệt đáng kể trong phát triển kinh tế và đạt được mục tiêu phát triển bền vững ở xã hội hiện đại. Tuy nhiên, những người sáng lập DNXH phải đối mặt với nhiều khó khăn khi hoạt động trong khung khổ pháp lý hiện hành vì không có một đạo luật quy định rõ ràng về DNXH. Luật kinh doanh truyền thống và các cấu trúc mà nó cung cấp thường hạn chế khả năng ưu tiên sứ mệnh xã hội của công ty do lợi ích của các cổ đông. Càng ngày DNXH càng nổi lên như một lĩnh vực mới của chính sách công, một quốc gia đã tìm cách kích thích sự đóng góp của các tổ chức tư nhân vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân cũng như phát triển xã hội, và DNXH có thể đóng một vị trí quan trọng trong những dự án và chính sách đó. Điều này đã kích hoạt một loạt các nghiên cứu pháp lý trong khoảng 10 năm qua tại một số quốc gia đang tìm cách xây dựng hỗ trợ và kích thích sự phát triển của DNXH. Những khung pháp lý này vừa tìm các định nghĩa DNXH vừa cấu trúc nó thông qua việc tạo ra các hình thức pháp lý mới.
Ngày nay, ở hầu hết các nước có DNXH phát triển, mọi vấn đề liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt động của DNXH đều được điều chỉnh bằng pháp luật. Điều này được lý giải bởi những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, pháp luật có những đặc trưng cơ bản mà các công cụ quản lý khác không thể có được như: tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế ... Chính các đặc trưng chủ yếu này đã làm cho pháp luật trở thành một trong những công cụ quản lý xã hội có hiệu quả nhất được sử dụng để điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh.
Hai là, DNXH là một trong những loại hình tổ chức hoạt động quan trọng của xã hội. Vì vậy, muốn cho các vấn đề xã hội có nhiều nguồn lực để giải quyết hơn, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý chặt chẽ cũng như khuyến khích phát triển bằng pháp luật. Do đó,