Chức Năng, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Doanh Nghiệp Xã Hội

Hội đồng Kinh doanh Thế giới vì Sự Phát triển Bền vững (World Business Council for Sustainable Development) đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ với các tiêu chí rõ ràng và có thể đo lường được: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết liên tục của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc cải thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ cũng như của cộng đồng và toàn thể xã hội nói chung”[147]. Doanh nghiệp cần tuân thủ các chuẩn mực theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội, chủ yếu thuộc năm lĩnh vực: quyền con người; quyền của người lao động; môi trường; tham gia cộng đồng; quan hệ chuỗi cung ứng.

Một cách ngắn gọn, có thể phân biệt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và DNXH dựa trên các tiêu chí được đưa ra sau đây:

- Về phạm vi: trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ràng buộc tất cả các doanh nghiệp thương mại, trong khi DNXH là một tổ chức hoặc mô hình kinh doanh đặc thù, có hệ thống pháp luật điều chỉnh riêng.

- Về mục đích: Một doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chú trọng vào tối đa hóa lợi nhuận, trong khi DNXH chú trọng tối đa hóa lợi ích xã hội.

- Về động lực thực hiện các mục tiêu xã hội: Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bởi lẽ nó được ràng buộc bởi các nghĩa vụ đạo đức/tôn giáo hoặc nghĩa vụ pháp lý. Trong khi đó, động lực của DNXH là “lòng bác ái”, lòng mong muốn thay đổi một vấn đề xã hội.

- Về đối tượng đích: Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng đến cộng đồng chung hoặc sự thỏa mãn kỳ vọng của các cổ đông, trong khi DNXH lại hướng đến những nhóm người có thiệt thòi nhất định hoặc những người đang ở tình trạng cấp bách cần dịch vụ và hàng hóa của họ.

Về khoản trợ cấp đóng góp cho xã hội: Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có thể đóng góp một phần nhỏ hoặc lớn trong số lợi nhuận thu được, tùy vào sự lựa chọn của DN; còn DNXH gây dựng các quỹ tài chính riêng và đóng góp hoặc cam kết đóng góp một phần đáng kể trong số lợi nhuận thu được để thực hiện mục đích tối đa hóa lợi ích xã hội.

- Phân biệt DNXH với các loại hình doanh nghiệp khác

Sự khác biệt chủ yếu giữa DNXH với các doanh nghiệp thông thường thể hiện ở mục tiêu hoạt động và cách thức thực hiện mục tiêu đó. Doanh nghiệp thông thường tìm kiếm các cơ hội kinh doanh xuất phát từ nhu cầu thị trường, sau đó thiết kế các sản phẩm dịch vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh để thu lợi nhuận. Trong khi đó, DNXH đặt trọng

tâm vào các vấn đề xã hội và tìm kiếm phương thức giải quyết các vấn đề xã hội đó thông qua hình thức kinh doanh.

DNXH lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh hoạt động tối thượng ngay từ khi thành lập, và điều này phải được tuyên bố một các công khai, rõ ràng, minh bạch. Nói cách khác, mỗi DNXH được lập ra vì mục tiêu xã hội cụ thể của mình. Các doanh nghiệp truyền thống sử dụng việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay tìm đến các giải pháp xã hội như công cụ nhằm đạt được lợi nhuận cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Ngược lại, DNXH sử dụng hình thức kinh doanh như một công cụ để đạt được mục tiêu xã hội của mình. Rõ ràng, hai quy trình cũng như cách tiếp cận này tương phản nhau về bản chất. Do đó, DNXH có thể có lợi nhuận, thậm chí cần lợi nhuận để phục vụ mục tiêu xã hội, nhưng không vì lợi nhuận và vì xã hội.

2.1.2. Chức năng, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp xã hội

a. Chức năng

Với nhiều quan niệm về DNXH đã trình bày ở trên, sẽ có nhiều cách hiểu về chức năng của tổ chức đặc biệt này. Tuy nhiên, tựu chung lại DNXH có những chức năng chính sau:

Một là, chức năng xã hội. DNXH luôn đề ra mục tiêu, sứ mệnh xã hội là điều quan trọng nhất ngay từ khi thành lập. Mục tiêu xã hội của DN được công bố minh bạch, rộng rãi và công khai. Khi DNXH được lập ra bởi người sáng lập thì họ đã định sẵn mục tiêu xã hội cụ thể mà DN đó cần giải quyết, đó là vấn đề chung của một công đồng hoặc nhóm người trong xã hội được xác định chứ không phải phục vụ cho một cá nhân. DNXH luôn sử dụng hoạt động kinh doanh như một phương tiện để đạt được các mục tiêu xã hội của mình.

Hai là, chức năng kinh doanh. DNXH cũng giống như các DN truyền thống khác, có quyền kinh doanh các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Hoạt động kinh doanh là nét đặc biệt cũng như ưu thế của DNXH so với các tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ và các quỹ từ thiện do các tổ chức này hầu như nhận tài trợ và thực hiện các chương trình xã hội mà không có chức năng kinh doanh. DNXH sử dụng hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng như một công cụ nhằm thực hiện mục tiêu xã hội. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, khi mà có rất nhiều các DN thương mại thì hoạt động kinh doanh của DNXH thực sự là thử thách không đơn giản, nhưng điều đó sẽ dành cho DNXH vị thế tự chủ và độc lập trong hoạt động và quản lý tổ chức của mình. Doanh thu có thể không bù đắp được tất cả chi phí cho mục tiêu xã hội và DNXH có thể dựa vào nguồn tài trợ. Đó là một sự lựa chọn đầy ưu thế của DNXH

b. Đặc điểm của DNXH

DNXH như phân tích trong phần khái niệm, tác giả cho rằng trước tiên nó phải mang đầy đủ đặc điểm của doanh nghiệp nói chung, như có hoạt động kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ thường xuyên; có tính tổ chức và có tính hợp pháp. Ngoài ra, với sứ mệnh đặt mục tiêu xã hội và môi trường lên hàng đầu thì DNXH cũng có các đặc điểm riêng mang nét đặc trưng riêng. Trong một nghiên cứu đăng trong tạp chí Harvard Business Review, giáo sư J. Gregory Dees, đã đưa ra mô hình mà ông gọi là “Phổ DNXH” (Social Enterprise Spectrum) [78]. Một đầu dải phổ là loại tổ chức thuần túy theo đuổi các mục tiêu xã hội và môi trường, gạt bỏ động lực lợi nhuận. Đầu kia của dải phổ là các tổ chức theo đuổi tối đa hóa lợi nhuận như mục đích tối hậu và không màng đến các vấn đề xã hội hay môi trường. Ở đâu đó giữa hai đầu dải phổ, chính là DNXH (Xem Sơ đồ 1).




Hoàn toàn vì mục đích từ

thiện


`

Hoàn toàn vì mục đích

thương mại


Động lực; Phương pháp; Mục tiêu

Thiện ý; Dẫn dắt bởi nhiệm vụ; Giá trị xã hội

Động lực đan xen; Dẫn dắt bởi nhiệm vụ và thị trường; Giá trị kinh tế và giá trị xã hội

Lợi ích cá nhân; Dẫn dắt bởi thị trường; Giá trị kinh tế


Các yếu tố chìa khóa


Người thụ hưởng


Không phải trả phí

Trả phí theo giá trợ cấp (hoặc kết hợp giữa những người trả toàn bộ

phí và những người không phải trả phí)


Trả phí theo giá trị trường


Vốn


Viện trợ, tài trợ

Dưới mức vốn thị trường (hoặc kết hợp giữa viện trợ và vốn thị

trường)


Vốn thị trường


Lực lượng lao động


Không có lương

Lương dưới mức chung của thị trường (hoặc kết hợp tình nguyện viên và nhân viên được trả đủ

lương)


Lương theo mức chung của thị trường


Nguồn cung hàng


Hiện vật được viện trợ, tài trợ

Hàng hóa được giảm giá (hoặc kết hợp giữa hiện vật được viện trợ và hàng hóa mua giá thị

trường)


Hàng hóa mua giá thị trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 7

Sơ đồ 1.2. Phổ DNXH [103]

Còn Keren G. Raz lại đưa ra các đặc điểm của DNXH “với mục đích là tìm ra một cấu trúc pháp lý phù hợp”. Ông cho rằng, để có thể xây dựng cấu trúc pháp lý riêng dành cho DNXH, cần phải xác định rõ ràng hình thức DNXH sẽ giải quyết những nhu cầu pháp lý nào.

Theo Keren, DNXH có bốn đặc điểm theo đó thể hiện các nhu cầu pháp lý đặc thù: “DNXH là tổ chức mà (i) ưu tiên trước nhất cho việc phục vụ mục tiêu xã hội, (ii) thực hiện sứ mệnh xã hội thông qua việc sử dụng các mô hình kinh doanh điển hình, phức tạp liên quan đến hoạt động doanh nghiệp truyền thống, (iii) theo đuổi các lựa chọn tài chính đa dạng và (iv) phải đối mặt với những thách thức mới về công tác quản trị trong việc điều hòa lợi ích giữa nhà tài trợ và nhà đầu tư” [112]. Trong đó, Keren nhấn mạnh rằng yếu tố (i) và (ii) là điều kiện cần, yếu tố (iii) và (iv) là điều kiện đủ. Có thể thấy những gì mà Keren G. Raz nêu ra có nhiều điểm tương đồng với định nghĩa DNXH của Bộ Thương mại và Công nghiệp Vương quốc Anh, nhưng cụ thể hơn.

Thứ nhất, DNXH có sứ mệnh phục vụ các mục tiêu xã hội: Năm 2008, Vinamilk khởi động chiến dịch "Quỹ một triệu ly sữa". Mục tiêu của Quỹ là giúp cho khoảng

50.000 trẻ em nghèo trên toàn quốc có sữa uống miễn phí trong vòng 10 ngày. Người tiêu dùng có thể đóng góp cho quỹ với hình thức khi mua một hộp sữa Vinamilk bất kỳ, 60 VNĐ sẽ được chuyển vào Quỹ 1 triệu ly sữa cho trẻ em nghèo Việt Nam [160]. Chiến dịch của Vinamilk chắc chắn là có đem lại lợi ích xã hội, góp phần giúp rất nhiều trẻ em thiệt thòi được tiếp cận thêm nguồn dinh dưỡng. Vậy Vinamilk có phải là DNXH không? Câu trả lời là không. Một DNXH phải có mục đích tối hậu là phục vụ các lợi ích xã hội, và đó cũng chính là lý do tồn tại của các DNXH. Trong khi đó, lợi nhuận thu được của thành viên chỉ là yếu tố phụ. Chính yếu tố này phân biệt DNXH với các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận. Lý do tồn tại của Vinamilk không phải là để giải quyết các vấn đề xã hội mà là để tìm kiếm lợi nhuận.

Điểm mấu chốt ở đây không nằm trong mục tiêu xã hội thực chất mà DNXH đề ra, mà trong phạm vi mà nhiệm vụ xã hội tác động đến quá trình ra quyết định của DNXH đó. Nói cách khác, một DNXH không chỉ cần một sứ mệnh xã hội, mà nó còn phải đưa sứ mệnh xã hội đó thâm nhập vào động cơ vận hành, hệ thống quản lý, chiến lược đàm phán với các đối tác và quá trình ra quyết định của mình. Một DNXH không chỉ tặng 60 VNĐ cho mỗi hộp sữa, mà còn phải xác định một cách nghiêm túc cách giải quyết vấn đề xã hội cụ thể: làm cách nào để trẻ em nghèo ở Việt Nam tiếp cận được với dinh dưỡng. Mặc dù sự đóng góp của Vinamilk đóng góp vào sự tiến bộ quan trọng cho mục tiêu này, nhưng điều này không làm cho Vinamilk trở thành một DNXH.

Thứ hai, DNXH thực hiện sứ mệnh xã hội hoạt động thông qua việc sử dụng các mô hình kinh doanh điển hình, phức tạp liên quan đến hoạt động doanh nghiệp truyền thống.

Bên cạnh các sứ mệnh xã hội, các DNXH có thể giống với các doanh nghiệp truyền thống ở điểm sử dụng các phương thức kinh doanh tinh vi và các mô hình kinh doanh để đạt được mục tiêu. Ví dụ, nhà hàng KOTO đào tạo hướng nghiệp, giáo dục định hướng và tạo công ăn việc làm miễn phí cho các thanh thiếu niên đường phố, lang thang cơ nhỡ, các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, sau đó sử dụng chính các em làm người lao động trong nhà hàng hoặc làm trung gian môi giới để các em làm trong các nhà hàng, khách sạn lớn [162].

Có một khác biệt căn bản giữa DNXH và các tổ chức phi lợi nhuận truyền thống. Đó là mặc dù các tổ chức phi lợi nhuận truyền thống có thể tham gia vào các chức năng kinh doanh nhằm tăng doanh thu, tuy nhiên, những nỗ lực này không làm cho tổ chức phi lợi nhuận đó trở thành một DNXH, bởi vì nó không đóng vai trò là một giá trị cốt lõi để từ đó tổ chức trực tiếp thực hiện sứ mệnh nhân đạo [112]. Ví dụ, tổ chức Save the Children tiến hành phân phối một danh mục quà tặng cho những ngày lễ tết nhằm gây mục đích gây quỹ [163] thì công việc phân phối đó chỉ là biện pháp phụ trợ, bản thân nó không trực tiếp thực hiện sứ mệnh: cứu sống những đứa trẻ dễ bị tổn thương và bị khai thác. Trong khi đó, nhà hàng KOTO đào tạo và môi giới việc làm cho nhóm trẻ dễ bị tổn thương, và đây quả thực là trọng tâm hoạt động của KOTO – nói cách khác, là một hoạt động kinh doanh trực tiếp xúc tiến sứ mệnh nhân đạo.

Thứ ba, DNXH sử dụng các công cụ, phương tiện tài chính đa dạng: Một khi DNXH đi vào hoạt động và thành công như một doanh nghiệp thực thụ, thì doanh thu tạo ra sẽ bao gồm cả các chi phí đầu vào. Do đó, thách thức nằm ở việc quản lý tài chính trong giai đoạn start-up và giai đoạn đầu tăng trưởng. Vì lẽ đó, các nghiên cứu mang tính lý thuyết về DNXH thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm kiếm các biện pháp tài chính linh hoạt, cũng như tăng cường khả năng tiếp cận vốn [119]. Thực tế, tính linh hoạt về tài chính đồng nghĩa với việc sở hữu nhiều lựa chọn sẵn có cho việc gọi vốn. Hiện nay, có nhiều hình thức gọi vốn mà các DNXH có thể cân nhắc. Ví dụ, các nhà tài trợ và các quỹ từ thiện có thể cung cấp cho DNXH một gói tài chính mà trong đó có sự

kết hợp của tiền dùng để tài trợ và tiền dùng để đầu tư, mà tổ chức phi lợi nhuận Omidyar Network đã áp dụng mô hình này rất thành công8. Một ví dụ khác, đó là trào


8 “Mạng lưới Omidyar đầu tư vào các doanh nhân - những người cùng chia sẻ cam kết thúc đẩy lợi ích xã hội với tốc độ và quy mô mà thế giới cần ngày nay [...] chúng tôi cung cấp không chỉ các hỗ trợ tài chính mà còn

lưu “đầu tư tác động” (impact investing), thực hiện bởi nhóm các nhà đầu tư tìm kiếm lợi ích xã hội trước lợi ích kinh tế. Mô hình đầu tư này đang ngày càng lớn mạnh, đã xuất hiện tại Việt Nam vào cuối năm 2013 dưới danh nghĩa là chương trình thí điểm của Oxfam [150]. Ngoài ra, DNXH có thể tìm kiếm các nguồn gọi vốn khác, bao gồm các giải pháp thay thế nguồn tài chính truyền thống như ngân hàng, nhà đầu tư giai đoạn đầu, các nhà đầu tư mạo hiểm, chính phủ và các tổ chức tài chính phục vụ phát triển cộng đồng [103, tr.294-295].

Thứ tư, DNXH phải thường xuyên đối mặt với sự xung đột lợi ích giữa nhà tài trợ và nhà đầu tư trong quản trị DN. Các DNXH phải đối mặt với rất nhiều thách thức đặc thù về công tác quản trị, ở cả trong nội bộ và lẫn bên ngoài. Trong nội bộ, khi hàng ngày đưa ra những quyết định kinh doanh, các DNXH phải cân bằng các mục tiêu xã hội và mục tiêu lợi nhuận, vốn có tính xung đột tiềm tàng. Việc bỏ ra nhiều chi phí cho các mục tiêu xã hội cũng đồng nghĩa với việc rút bớt tiền tái đầu tư vào kinh doanh và tiền chi trả lợi nhuận cho các cổ đông/thành viên. Thách thức nội bộ cũng đặt ra với những người sáng lập - người muốn đảm bảo rằng sứ mệnh xã hội của mình không thể bị lu mờ khi có các nhà lãnh đạo mới lên nắm quyền hoặc khi các nhà đầu tư gây sức ép lợi nhuận. Thực tế, luật pháp thường có sẵn các điều khoản nhằm quản lý các tình huống như vậy. Ví dụ, luật các tổ chức phi lợi nhuận thiết lập rất chặt chẽ các điều khoản cấm tư lợi cá nhân, hoặc luật doanh nghiệp cho phép các bên thiết lập bản điều lệ để thỏa thuận các vấn đề liên quan ngay từ đầu [112, tr.296]. Tuy nhiên, khó khăn nằm ở chỗ, họ vẫn cần phải trả lời được một câu hỏi tương đối hóc búa: các điều khoản trên sẽ được áp dụng như thế nào đối với một DNXH cụ thể, có một nhiệm vụ xã hội cụ thể?

Từ bên ngoài, thách thức quản trị xảy ra khi các DNXH phải đưa các nhà đầu tư vào ngồi cùng một bàn đàm phán, bao gồm các nhà đầu tư theo định hướng truyền thống, các nhà đầu tư xã hội và các nhà tài trợ. Việc quản lý các mối quan hệ với những cá nhân tài trợ cho tổ chức là rất phức tạp, bởi mỗi nguồn tài chính có một danh sách các yêu cầu riêng. Khi khai thác các nguồn vốn đa dạng, các DNXH bắt buộc phải giao dịch với nhiều bên liên quan, kể cả khi họ là những người có quyền lợi xung đột. Đặc biệt, đối với mô hình công ty cổ phần, trong khi lợi thế DNXH là có thể phân phối cổ phần để thu hút các nhà đầu tư và tăng vốn, thì họ lại phải chịu thêm rủi ro quản trị. Họ sẽ phải nỗ lực rất nhiều để tìm kiếm sự cân bằng trong cơ cấu tài chính, liên quan đến các nhà đầu tư truyền thống (muốn có lãi suất trên thị trường), các nhà đầu tư tác động (impact



là các nguồn lực nhân lực thiết yếu, các hội đồng tư vấn chiến lược, nhà điều hành [...]”, xem tại trang web của tổ chức: https://www.omidyar.com/who-we-are(truy cập ngày 22/04/2017)

investors), và các nhà tài trợ [141]. Đơn cử, các DNXN sẽ phải tìm cách thuyết phục các nhà đầu tư xã hội rằng doanh thu kinh doanh được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ xã hội, và nhà đầu tư có thể yên tâm rằng sứ mệnh nhân đạo sẽ được duy trì sau khi thay đổi quyền sở hữu.

c. Vai trò của DNXH

DNXH mang đầy đủ vai trò của doanh nghiệp nói chung, có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, (doanh nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP)). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo nhiều cơ hội việc làm, xóa đói, giảm nghèo… Doanh nghiệp là chủ thể quan trọng, quyết định quá trình chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: cơ cấu đa dạng thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề kinh doanh, cơ cấu kinh tế giữa các khu vực, vùng và địa phương. Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp, công nghệ và du lịch tăng nhanh là một trong những yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế của một quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Có thể nói vai trò doanh nghiệp không chỉ quyết định đến sự bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hóa các vấn đề xã hội. Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây đã đưa lại những kết quả quan trọng sau:

- Tạo ra một lượng lớn cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống của người lao động.

- Doanh nghiệp hình thành và phát triển là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng vượt bậc và ổn định của nền kinh tế trong những năm qua.

- Doanh nghiệp phát triển sẽ là động lực tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ ngành.

- Phát triển doanh nghiệp tác động đến việc giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.

Từ kinh nghiệm tại một số quốc gia trên thế giới có thể nhận thấy DNXH đã và đang từng bước khẳng định vai trò là một mô hình giải quyết những vấn đề cộng đồng một cách bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh hạn hẹp về nguồn lực của Chính phủ các quốc gia. Từ mục đích vì xã hội, vì cộng đồng, các DNXH đã và đang đồng hành, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội cùng với Nhà nước, cụ thể như: Hỗ trợ và nâng cao kỹ

năng cho nhóm người yếu thế, bảo vệ môi trường, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, bảo tồn lưu giữ những giá trị văn hóa…

Từ thế kỷ 17 đến nay là quãng thời gian đủ dài để cho thấy lịch sử phát triển lâu đời của DNXH tại Vương quốc Anh. Tại đây đã có rất nhiều mô hình DNXH được thực hiện như: cung cấp dịch vụ công qua các hợp đồng với chính quyền, tài chính vi mô, các hoạt động tạo thu nhập cho các tổ chức từ thiện, thương mại công bằng, dạy nghề và tạo việc làm, nhóm tự lực và nhà ở xã hội. DNXH ở đây hoạt động dưới rất nhiều loại hình tổ chức và địa vị pháp lý đa dạng, bao gồm: các quỹ ủy thác, công ty xã hội, liên hiệp nhà ở, quỹ pháp triển, hợp tác xã, doanh nghiệp do người làm thuê tự chủ, quỹ tín dụng, chi nhánh kinh doanh của các tổ chức từ thiện phi lợi nhuận, công ty cổ phần, công ty TNHH và các công ty vì lợi ích cộng đồng. Theo một khảo sát của Cơ quan DNXH Vương Quốc Anh (Social Enterprise UK), tính đến năm 2015 tại Anh có khoảng 70.000 DNXH ước tính doanh thu 24 tỷ bảng Anh và tạo gần một triệu cơ hội việc làm tại đây. Đa số nguồn thu của các DNXH là từ các hoạt động thương mại. Một số hướng đã dần hình thành đó là các tổ chức phi chính phủ truyền thống lựa chọn chuyển đổi theo mô hình doanh nghiệp.

Tại Châu Á, Hàn Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên có sự phát triển của mô hình DNXH gắn với khủng hoảng kinh tế mà cụ thể là trong lĩnh vực tài chính vào năm 1997. Khi tình trạng thất nghiệp tại đây xuất hiện đáng báo động, những dịch vụ phúc lợi xã hội của Nhà nước không thể phục vụ hết các yêu cầu cơ bản của người dân, vấn đề cấp bách đặt ra cho Nhà nước đó là nhanh chóng tìm ra biện pháp kịp thời. Thời điểm đó các tổ chức xã hội dân sự tại đây đã thực sự cho thấy vai trò của mình khi chung tay hỗ trợ Nhà nước tạo ra những cơ hội việc làm mới, vì mục tiêu cộng đồng trong suốt những năm từ 1998-2006 góp phần đáng kể giảm bớt áp lực xã hội về chăm sóc người già, tạo việc làm cho giới trẻ và lực lượng lao động phổ thông. Trên cơ sở Luật Phát triển DNXH năm 2007, các hoạt động của DNXH tại đây được thể hiện rõ nét hơn và tiếp tục có những xu hướng thay đổi tích cực. Tính đến cuối năm 2014 đã có khoảng hơn 1.000 doanh nghiệp được cấp chứng nhận là DNXH và mục tiêu của Hàn Quốc là tiếp tục tăng gấp 2,5 lần vào năm 2017.

Tại Đông Nam Á, Philippin là một trong những quốc gia có lượng DNXH đáng kể. Trong gần một thập kỷ vừa qua, quốc gia này đã đạt được một số thành công về tốc độ tăng trưởng GDP, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tình trạng khó khăn như thiên tai, tỷ lệ đói nghèo…Đây cũng chính là những vấn đề mà các DNXH đã và đang hỗ trợ Chính phủ cùng giải quyết. Một số lượng đáng kể doanh nhân đã thiết lập các tổ chức

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí