PHẦN PHỤ LỤC
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
B/10
Bản án số: 454/2006/DSPT Ngày: 11/5/2006
V/v:“Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Về Đăng Ký Và Cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sở Hữu Nhà Ở
- Một Vài Bình Luận Về Dự Thảo Luật Đăng Ký Bất Động Sản
- Pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam - 10
- Pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam - 12
- Pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam - 13
- Pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên toà: Ông Đỗ Giang
Các thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Tấn Luận
2. Bà Trần Xuân Thủy
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Đỗ Thị Lĩnh
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: không tham gia phiên toà.
Ngày 4 tháng 5 năm 2006 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 922/DSPT ngày 02/11/2005 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 252/QĐ – ĐXXPT ngày 17/4/2006 tuyên án lúc 08giờ sáng ngày 11/5/2006 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: 1/ Bà Đỗ Thị Lan, sinh năm 1958
2/ Ông Lê Văn Lùng, sinh năm 1950p
Cùng ngụ tại: C14/25 Khu phố 3, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TP. HCM. (có mặt)
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hai, sinh năm:1918
Ngụ tại: C14/25 Khu phố 3, phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TP. HCM. (có mặt)
Ủy quyền cho bà Lê Thị Lũng
Địa chỉ: 429/27 đường Chiến Lược, Khu phố 1, Phường Bình Trị Đông A, Quận Bình Tân, TP. HCM.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Nguyễn Thị Ngọc Hiếu, sinh năm 1985
Ngụ tại: 29 Trần Hưng Đạo B, phường 6, Quận 5, TP. HCM. (vắng, có đơn xin vắng mặt)
2/ Ông Nguyễn Văn Cua, sinh 1946
3/ Anh Nguyễn Thanh Hùng, sinh 1971 4/ Anh Nguyễn Thanh Vũ, sinh 1973
5/ Chị Nguyễn Thị Thanh Tâm, sinh 1975 6/ Chị Nguyễn Thị Mỹ Linh, sinh 1978
7/ Anh Nguyễn Thanh Hiền, sinh 1979 8/ Chị Nguyễn Thị Ngọc Hậu, sinh 1982
Cùng ngụ tại: B16/11 Khu phố 6, phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TP. HCM.
Địa chỉ mới: 626 Hương Lộ 2, Phường Bình Trị Đông. Các đương sự gồm Hùng, Vũ, Tâm, Linh, Hiền, Hậu cùng ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Cua đại diện).
9/ Anh Lê Tấn Lưu, sinh 1978 10/ Anh Lê Tấn Lực, sinh 1980 11/ Anh Lê Tấn Lợi, sinh 1983
12/ Anh Lê Thành Linh, sinh 1975 13/ Chị Lê Thị Hồng Liên, sinh 1985 14/ Anh Lê Tấn Lương, sinh 1987 15/ Cháu Lê Tấn Lịch, sinh 1989
Cùng ngụ tại: C14/25 Khu phố 3, phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các đương sự gồm Lưu, Lực, Lợi, Linh, Liên, Lương cùng ủy quyền cho bà Lan, cháu Lịch do bà Lan làm giám hộ.
16/ Bà Châu Ngọc Ẩn, sinh năm 1954
Ngụ tại: A 16/63A Khu phố 4, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.
Luật sư Nguyễn Tấn Ngà thuộc chi nhánh Cục trợ giúp pháp lý - Bộ tư pháp bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn.
Luật sư Nguyễn Thị Hồng Liên thuộc Văn phòng luật sư Hồng Liên đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn.
Luật sư Trần Ngọc Bích thuộc Văn phòng luật sư Trần Ngọc Bích đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Cua.
Luật sư Huỳnh Ngọc Thắng và luật sư Châu Ngọc Tường Vi thuộc Văn phòng luật sư Nhất Thể đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Châu Ngọc Ẩn.
NHẬN THẤY:
Phần đất tranh chấp có diện tích 7.956m2 thuộc các thửa 330, 331, 332, 333 tờ bản đồ số 4, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là loại đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị Hai. Bà Hai đại diện hộ gia đình đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 168/QSDĐ ngày 27/5/2000.
Vào ngày 24/12/2000 bà Nguyễn Thị Hai làm hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ 7.956m2 đất cho ông Nguyễn Văn Cua với giá 384 lượng vàng SJC. Ông Cua đã trả đủ vàng cho bà Hai, trong đó bà Hai nhận 234 lượng vàng SJC và cấn trừ cho bà Hai 5.993m2 đất của ông Cua tại xã Tân Kiên, Bình Chánh trị giá 150 lượng vàng SJC. Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hai và ông Cua đã được Ủy ban nhân dân Huyện Bình Chánh phê duyệt ngày 15/3/2001 theo hợp đồng chuyển nhượng số 180/CN.
Sau khi đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 23/7/2001 ông Nguyễn Văn Cua làm hợp đồng chuyển nhượng lại phần đất này cho bà Châu Ngọc Ẩn với giá 795,6 lượng vàng SJC và ông Cua đã nhận của bà Ẩn 350 lượng vàng SJC.
Do hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua trước đây không thông qua các thành viên thuộc hộ gia đình được cấp đất nên bà Đỗ Thị Lan (là thành viên trong hộ) làm đơn khiếu nại.
Ngày 22/02/2002 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh có quyết định số 830/QĐ-UB về việc giải quyết khiếu nại của bà Đỗ Thị Lan. Theo quyết định này Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh công nhận quyền sử dụng đất phần đất 7.956m2 thuộc các thửa 330, 331, 332, 333 tờ bản đồ số 4 xã Bình Trị Đông (nay là phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân) cho hộ bà Nguyễn Thị Hai. Nguồn gốc phần đất do bà Nguyễn Thị Hai thuê mướn và trực tiếp canh tác trước giải phóng, năm 1978 bà Hai đưa đất này vào tập đoàn sản xuất. Cùng thời điểm sổ hộ khẩu của bà Nguyễn Thị Hai gồm các nhân khẩu: Nguyễn Thị Hai, Lê Văn Lùng, Lê Tấn Lựu, Lê Tấn Linh và bà Đỗ Thị Lan (vợ của ông Lùng) có tên trong bản kê khai danh sách nhân khẩu NK2 ngày 02/10/1976, bà Lan quan hệ với chủ hộ là con dâu. Các thành viên trong hộ gia đình bà Nguyễn Thị Hai trong đó có bà Lan được hưởng quyền lợi như nhau đối với phần đất 7.956m2 theo quy định của pháp luật.
Tiếp đó, ngày 12/11/2002 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh có công văn số 1882/UB trả lời đơn khiếu nại của bà Lan, xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị Hai là đúng quy định của pháp luật. Các thành viên trong hộ bà Hai được hưởng quyền lợi như nhau đối với phần đất 7.956m2. Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh không công nhận việc chuyển nhượng 7.956m2 giữa bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua vì chưa được sự thống nhất của các thành viên trong hộ gia đình bà Hai.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Lan, ông Lùng yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất đã được xác lập giữa bà Hai và ông Cua và đề nghị chia phần đất 7.956m2 thành 6 phần, trong đó bà Hai được 2 phần gồm 1 suất của bà Hai và 1 suất liệt sĩ (chồng của bà) là 2.652m2; còn lại 5.304m2 đất của 4 suất gia đình ông bà được hưởng.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Hai không đồng ý chia đất cho vợ chồng ông Lùng, bà Lan vì cho rằng đất trên là của bà; Bà đã lập hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Cua thì ông Cua có quyền quyết định. Đối với phần đất ở xã Tân Kiên ông Cua đã chuyển nhượng cho bà xin được giữ nguyên, không đồng ý trả lại cho ông Cua.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Cua yêu cầu được nhận 2.652m2 đất, phần bà Nguyễn Thị Hai được chia để ông giao lại cho bà Châu Ngọc Ẩn. Đồng thời xin hủy hợp đồng chuyển nhượng đất 5.993m2 tại xã Tân Kiên, Bình Chánh giữa ông và bà Hai vì việc giao đất không đúng như diện tích ban đầu. Bà Nguyễn Thị Hai phải trả lại cho ông khoản tiền chênh lệch 107 lượng vàng SJC.
Bà Châu Ngọc Ẩn yêu cầu tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đã được chính quyền địa phương thừa nhận giữa bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua vì khi ông Cua được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà đã ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Cua; bên ông Cua đã nhận của bà 350 lượng vàng SJC. Nếu không được công nhận việc chuyển nhượng, bà đồng ý nhận 2.652m2là phần đất của
bà Hai được chia, do ông Cua giao. Phần tiền chênh lệch tương ứng với diện tích đất chuyển nhượng ông Cua phải thanh toán lại cho bà.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 19/2005/DSST ngày 28/9/2005 Tòa án nhân dân Quận Bình Tân Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng Điều 116; Điều 118; Điều 238; Điều 693; Điều 697; Điều 705 Bộ luật dân sự (1995) và áp dụng các Điều 113; khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai 2003. Xử:
Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Lùng, bà Đỗ Thị Lan xin hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chia đất cho các thành viên trong hộ gia đình.
Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hai không đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7.956m2 đất và không đồng ý chia đất nông nghiệp cho các thành viên trong hộ gia đình.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7.956m2 đất nông nghiệp thuộc các thửa 330, 331, 332, 333 tờ bản đồ số 4, Phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giữa bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua theo hợp đồng số 180/CN được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt ngày 15/3/2001.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng 5.993m2 đất thuộc thửa 4.708 tờ bản đồ số 3, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giữa bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua làm ngày 10/11/2001.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 7.956m2 đất nông nghiệp thuộc các thửa 330, 331, 332, 333 tờ bản đồ số 4, phường BìnhTrị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Văn Cua và bà Châu Ngọc Ẩn làm ngày 23/7/2001.
Buộc bà Nguyễn Thị Hai chia đất cho các thành viên trong hộ gia đình: Phần ông Lê Văn Lùng, bà Đỗ Thị Lan được quyền sử dụng đất có diện tích 5.304m2 thuộc thửa 332, 333 và 1 phần thửa 330, 331 tờ bản đồ
số 4, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Hai được quyền sử dụng 2.652m2 đất thuộc 1 phần thửa 330, 331 tờ bản đồ số 4, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân Thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc bà Nguyễn Thị Hai có trách nhiệm trả lại cho ông Nguyễn Văn Cua số tiền là 384 lượng vàng SJC và 1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 209/QSDĐ/2001 do Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp ngày 04/6/2001 mang tên Nguyễn Văn Cua.
Buộc ông Nguyễn Văn Cua có trách nhiệm trả lại cho bà Châu Ngọc Ẩn số tiền là 350 lượng vàng SJC.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân quận Bình Tân Thành phố Hồ Chí Minh thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 168/QSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cũ cấp ngày 25/7/2000 cho hộ bà Nguyễn Thị Hai vì : giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã chuyển sang tên ông Nguyễn Văn Cua ngày 28/3/2001 theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 180/CN đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh phê duyệt ngày 15/3/2001.
Trường hợp bà Nguyễn Thị Hai tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng 2.652m2 đất được chia cho ông Nguyễn Văn Cua. Ông Cua chuyển nhượng phần đất này lại cho bà Châu Ngọc An và giao cho bà An 3.392m2đất thuộc thửa 4708 tại xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh thì các bên có trách nhiệm làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Bà Nguyễn Thị Hai, ông Lê Văn Lùng và bà Đỗ Thị Lan được quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng đất được chia nêu trên theo quy định của pháp luật. Việc chia đất và giao nhận tiền được thực hiện tại Thi hành án dân sự Quận Bình Tân khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày ông Nguyễn Văn Cua, bà Châu Ngọc Ẩn có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu bà Hai, ông Cua không thực hiện khoản tiền nêu trên thì hàng tháng ông Cua, bà Hai còn phải chịu thêm tiền lãi theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Ông Lê Văn Lùng, bà Đỗ Thị Lan chịu 20.130.000đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 4.652.000đồng theo biên lai thu số 034093 ngày 18/02/2003 của Thi hành án dân sự Huyện Bình Chánh (đã giảm ½ án phí cho ông Lùng, bà Lan). Ông Lùng, bà Lan còn phải nộp thêm số tiền là 15.178.000đồng tại Thi hành án dân sự Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị Hai.
Ông Nguyễn Văn Cua chịu 29.905.000đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí 15.903.000đồng theo biên lai thu số 003676 ngày 12/5/2005 của Thi hành án dân sự Quận Bình Tân Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Cua còn phải nộp thêm số tiền là 14.812.000đồng tại Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàn tiền tạm ứng án phí lại cho bà Châu Ngọc Ẩn 14.935.000đồng theo biên lai thu số 003696 ngày 19/5/2005 của Thi hành án dân sự Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Nguyễn Thị Hai và ông Nguyễn Văn Cua xác định ngày kháng cáo là ngày 05/10/2005. Đơn kháng cáo bà Nguyễn Thị Hai cho rằng: bà là người trực tiếp thuê và canh tác trên thửa đất 330, 331, 332 và 333 tờ bản đồ số 4 xã Bình Trị Đông từ trước giải phóng. Sau khi tập đoàn sản xuất trả lại đất, với tư cách chủ hộ bà đã đứng ra kê khai, đóng thuế đất và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với danh nghĩa cá nhân. Nay bà đã sang nhượng đất hợp lệ cho ông Nguyễn Văn Cua, thì ông Cua quyền định đoạt, tòa sơ thẩm căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2000 không công nhận việc chuyển nhượng đất làm thiệt hại đến quyền lợi của bà. Xin được xem xét tại toàn bộ vụ án.
Ông Nguyễn Văn Cua kháng cáo không đồng ý quyết định của án sơ thẩm với lý do ông đã đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất