Như đã phân tích ở trên, người sử dụng thẻ là NTD dịch vụ của NHTM, pháp luật bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch thẻ tại NHTM là một bộ phận của pháp luật bảo vệ NTD. Vì vậy, khi xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM cần thống nhất với pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD, tránh trường hợp chống chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Tính phù hợp được thể hiện ở các phương diện như nguyên tắc bảo vệ, cơ chế bảo vệ, cơ quan bảo vệ, xử lý vi phạm…Tuy nhiên do dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là một loại dịch vụ đặc biệt dẫn đến NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là NTD đặc biệt nên cũng cần có những quy định đặc thù về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa của NHTM tại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Hiện nay, bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM là nhiệm vụ cấp thiết góp phần bảo vệ quyền con người và đảm bảo sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này, cần có sự định hướng không chỉ với các chính sách kinh tế mà còn cả pháp luật nhằm tạo ra một nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả trong khuôn khổ hành lang pháp lý được hoàn thiện. Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, cần thiết phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về bảo vệ NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam sao cho phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là chuẩn mực về thế nào là người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM, các yêu cầu về bảo đảm an toan trong hoạt động ngân hàng nhằm bảo vệ quyền lợi NTD… Để đạt được mục đích đó, trước hết phải nghiên cứu, nẵm vững các nguyên tắc, chuẩn mực Quốc tế trong lĩnh vực này, bên cạnh đó cần vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.
3.1.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, hiện nay vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Việc quy định như vậy tạo nên sự thiếu thống nhất trong các quy định, gây khó khăn cho việc áp dụng. Như vậy, pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ATM cần được quy định trong một bộ phận của đạo luật riêng dành cho bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ ngân hàng. Trong văn bản pháp luật này cần đảm bảo những quy định cơ bản sau:
Thứ nhất, cần thống nhất khái niệm “người sử dụng dịch vụ thẻ tại NTHM” theo khái niệm “NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM” đã xác định tại chương 1. Tính cá biệt và không phụ thuộc vào giá trị thiệt hại phải là đặc thù quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Vấn đề cần giải quyết ngoài đưa ra một định nghĩa về người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại NHTM còn phải có một nhận thức chính xác về giá trị ứng dụng của khái niệm này, chính là phải là xây dựng cơ chế hợp lý để tạo điều kiện cho từng cá nhân - người tiêu dùng sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân bằng cách buộc người vi phạm bồi thường những thiệt hại, cho dù giá trị thiệt hại không lớn và xử lý hành vi vi phạm, cho dù chỉ xâm phạm đến một đối tượng cụ thể. Pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền không được từ chối giải quyết những yêu cầu mang tính cá nhân, giá trị bồi thường không lớn. Có như vậy, pháp luật mới thực sự trở thành công lý cho người dân và là công cụ hữu hiệu để từng người, tập thể người tiêu dùng tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân.
Thứ hai, cần quy định rõ ràng quyền của NTD sử dụng dịch vụ thẻ ATM tại NHTM.
Đây là nội dung rất quan trọng trong pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ATM tại NHTM. Bởi vì, phải xác định được quyền của NTD, chúng ta mới xây dựng được cơ chế bảo vệ những quyền đó. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật nước ta cần ghi nhận NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM có những quyền sau: quyền được thoả mãn những yêu cầu cơ bản gắn với dịch vụ thẻ đang sử dụng; quyền được an toàn; quyền được minh bạch cung cấp thông tin;
quyền được lựa chọn; quyền được đại diện; quyền được khiếu nại, khởi kiện và bồi thường thiệt hại; quyền được giáo dục về các vấn đề liên quan đến dịch vụ thẻ đang sử dụng.
Thứ ba, xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ là cá nhân và tổ chức cần có những điểm riêng biệt. Với người sử dụng dịch vụ thẻ ATM là tổ chức tức là cần ký kết hợp đồng và sử dụng thông qua người đại diện của tổ chức, việc xem xét về thẩm quyền và việc bảo mật thông tin có sự khác biệt và phức tạp hơn so với người sử dụng thẻ là cá nhân. Vì thế, khi xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của NTD sử dụng dịch vụ thẻ ATM tại NHTM, bên cạnh những quy định bảo vệ chung, nhà làm luật cần xây dựng những quy định riêng phù hợp với đặc điểm của từng chủ thể.
Có thể bạn quan tâm!
- Chương 2: Thực Trạng Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Sử Dụng Dịch Vụ Thẻ Tại Nhtm Ở Việt Nam
- Nhân Viên, Người Quản Lý, Người Điều Hành Của Tổ Chức Tín Dụng, Chi Nhánh Ngân Hàng Nước Ngoài Không Được Tiết Lộ Bí Mật Kinh Doanh Của Tổ Chức
- Thực Trạng Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Giữa Người Sử Dụng Dịch Vụ Thẻ Ghi Nợ Nội Địa Với Nhtm.
- Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
Thứ tư, hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng phát hành.
Như đã phân tích ở phần trước, việc đăng ký và sử dụng hợp đồng mẫu về sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa dù đã được quy định nhưng chưa được áp dụng thực hiện hiệu quả trong thực tế. Trước hết, cần tổng hợp các quy định về hợp đồng phát hành hiện đang nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau trong đạo luật này. Với việc quy định tập trung như vậy, sẽ đơn giản cho các NHTM, các cơ quan Nhà nước và NTD tiếp cận và sử dụng dễ dàng các quy định đó để tuân thủ và bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài ra, cũng cần quy định quản lý chặt chẽ các hợp đồng mẫu đã đăng ký và có các hình phạt riêng với việc không chấp hành quy định về hợp đồng mẫu tại các NHTM.
Có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý hợp đồng mẫu của một số quốc gia trên thế giới như: Điều 11 Luật Bảo vệ NTD Đài Loan quy định, khi doanh nghiệp kinh doanh có ý định đưa ra một hợp đồng theo mẫu thì phải để một thời gian ít nhất là 30 ngày để NTD xem xét lại nội dung của tất cả các điều khoản và điều kiện. Đồng thời, Luật cũng cho phép cơ quan có thẩm quyền ở cấp trung ương có thể xem xét thông báo đến NTD trong một thời gian thích hợp để NTD có thể xem xét các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ở một số ngành. Điều 11 cũng quy định: nếu các điều khoản và điều kiện trong hợp đồng theo mẫu được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải giải thích trên cơ sở có lợi cho NTD. Luật cũng quy định nếu điều khoản của hợp
đồng không công bằng đối với NTD thì bị coi là vô hiệu. Luật Bảo vệ NTD của Quebec (Canada) cũng như bản hướng dẫn thực thi Luật đã quy định một cách chi tiết các vấn đề liên quan đến hợp đồng tiêu dùng theo mẫu. Điều 8, Luật Bảo vệ NTD Quebec khẳng định: NTD có thể đề nghị tuyên bố vô hiệu một hợp đồng hoặc đề nghị giảm nghĩa vụ của mình nếu trong hợp đồng thể hiện rõ sự không cân xứng giữa phần nghĩa vụ tương ứng của các bên mà phần lớn thuộc về NTD hoặc nếu nghĩa vụ của NTD là quá nhiều, không hợp lý. Điều này có nghĩa là một hợp đồng có thể bị tuyên là vô hiệu nếu nó chứa đựng những điều khoản gây bất lợi cho NTD về phần nghĩa vụ mà NTD phải thực hiện. Tuy nhiên, Luật không coi trong trường hợp này hợp đồng sẽ bị vô hiệu đương nhiên mà chỉ bị tuyên là vô hiệu khi có yêu cầu của NTD. Đây là một quy định bảo vệ NTD một cách rõ ràng trong trường hợp họ thấy những quy định trong hợp đồng là vô lý. Tại Điều 10, Điều 11 cũng quy định về những điều khoản bị cấm, theo đó: Bất kì quy định nào mà nhờ đó một thương nhân được giải phóng khỏi hậu quả do việc làm của chính thương nhân hoặc đại diện của thương nhân đó gây ra và bất kì quy định nào mà nhờ đó một thương nhân có quyền quyết định đơn phương kết luận là NTD không hoàn thành nghĩa vụ đều bị cấm. Như vậy, kể cả khi điều khoản bất lợi trong hợp đồng chưa gây thiệt hại cho NTD cũng như NTD không đề nghị hủy bỏ hoặc tuyên vô hiệu hợp đồng nhưng nếu hợp đồng chứa những nội dung bị cấm (giải phóng nghĩa vụ của thương nhân) thì đều bị cấm. Luật Bảo vệ NTD Quebec cũng quy định rất chi tiết về cách thức trình bày hợp đồng theo mẫu, cỡ chữ hợp đồng, màu sắc hợp đồng và thậm chí là loại giấy dùng để in hợp đồng theo mẫu.
Thứ năm, hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa NTD sử dụng dịch vụ thẻ ATM và NHTM.
Cụ thể, pháp luật cần quy định rõ, đối với giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng dịch vụ thẻ ATM tại NHTM thì NTD được hỗ trợ để lấy chứng cứ. Việc hỗ trợ ở đây là hỗ trợ về khoa học công nghệ và pháp lý. Theo tác giả, khi có đơn khởi kiện tại cơ quan tài phán, cơ quan tài phán xem xét thụ lý đơn. Ngay sau giai đoạn này, cơ quan chức năng cần có biện pháp hỗ trợ NTD thu thập số liệu, dẫn chứng về vi phạm của NHTM. Việc hỗ trợ thu thập chứng cứ cho NTD là không thu phí hoặc
nếu có thu phải đảm bảo mức phí phù hợp với mục đích “hỗ trợ”. Trong trường hợp NTD từ chối việc hỗ trợ, cơ quan Nhà nước mới bỏ qua giai đoạn này.
Ngoài ra, có nhiều cơ quan tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, với nhiều biện pháp xử lý khác nhau thì trong đó, Tòa án giữ một vai trò và vị trí hết sức đặc biệt. Tòa án là biện pháp cuối cùng của các chủ thể và các quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành cao và bảo vệ được triệt để quyền lợi của người tiêu dùng. Tham khảo Luật bảo vệ người tiêu dùng ở Ấn Độ, luật này quy định tạo cơ sở pháp lý cho các Ủy ban Bảo vệ người tiêu dùng (những cơ quan có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng và đem lại 6 quyền lợi cho người tiêu dùng và cung cấp một cơ chế giải quyết tranh chấp 3 cấp. Người tiêu dùng có thể gửi khiếu nại lên các “Tòa án Người tiêu dùng có cơ chế đặc biệt (còn gọi là Tòa án người tiêu dùng). Cơ chế của Tòa án này như sau: Tòa án quận, các hội đồng bang, hội đồng quốc gia giải quyết tranh chấp người tiêu dùng. Những cơ quan này có thẩm quyền tương tự như các tòa án dân sự theo Luật tố tụng dân sự, 1908. Tùy thuộc vào bản chất từng vụ việc, khiếu nại có thể được gửi đến bất kỳ cơ quan nào trong ba cơ quan trên. Các thủ tục trong những vụ kiện này đơn giản hơn rất nhiều so với các thủ tục tòa án thông thường. Tuy nhiên, bên khiếu nại có thể tự mình đưa vụ việc này ra tòa mà không cần phải có luật sư. Luật này cũng cho phép khiếu nại tập thể. Sau khi phán quyết được đưa ra, nếu có bất kỳ bên nào không thỏa mãn thì sẽ mở phiên phúc thẩm. Phán quyết của Tòa án Quận sẽ do Hội đồng bang xét xử phúc thẩm, còn phán quyết của Hội đồng Bang sẽ do Hội đồng Quốc gia xét xử phúc thẩm. Phán quyết của Hội đồng quốc gia sẽ do Tòa tối cao xét xử phúc thẩm theo Luật này. Tuy nhiên, nếu một vấn đề đã được xét xử sơ thẩm tại một tòa án dân sự rồi thì không thể được xét xử tại các Tòa án Người tiêu dùng.
[26] Với Việt Nam, cần thiết có Toà án chuyên trách về bảo vệ NTD, quy trình giải quyết khiếu nại cần được xây dựng theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ. Nếu nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng được giao cho Tòa án, pháp luật nên áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để không làm trầm trọng hơn tình trạng thiệt hại của người khiếu nại. Mặt khác, trách nhiệm bồi thường của người vi phạm không chỉ giới hạn trong các khoản thiệt hại do hành vi vi phạm trực tiếp gây ra mà cần bao gồm những chi phí
phát sinh cho người tiêu dùng do phải theo đuổi vụ việc như chi phí thuê luật sư, các khoản thu nhập chính đáng và hợp lý…
Bên cạnh đó, pháp luật cần xây dựng cơ chế khiếu kiện cá nhân và tập thể một cách cụ thể và minh bạch. Trong pháp luật hiện hành, quyền khiếu nại, yêu cầu bồi hoàn, bồi thường thiệt hại đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh đã gây ra thiệt hại được ghi nhận tại chương 4 Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010, song nội dung của quy định chỉ là đề ra các nguyên tắc cơ bản. Theo đó, người tiêu dùng trực tiếp hoặc thông qua người đại diện thực hiện việc khiếu nại. Pháp luật chưa khuyến khích và đặt ra cơ chế giải quyết khiếu nại tập thể. Như vậy, người tiêu dùng chưa thể liên kết với nhau để khiếu nại hay khởi kiện doanh nghiệp. Trong khi đó, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng chỉ có quyền nhận đơn khiếu nại của người tiêu dùng và tổ chức hòa giải giữa người khiếu nại với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Việc thay mặt người tiêu dùng, tập thể người tiêu dùng để khiếu nại, khởi kiện của các tổ chức này cũng chưa được luật quy định. Khiếu nại tập thể phải được hiểu là việc nhiều người tiêu dùng thông qua các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoặc tự liên kết thành các nhóm chủ thể để khiếu nại doanh nghiệp hoặc khởi kiện tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi xâm hại quyền lợi hợp pháp của họ. Như vậy, nếu như việc giải quyết triệt để các vụ khiếu kiện cá biệt có thể kích thích khả năng phản ứng của từng người tiêu dùng thì việc thừa nhận quyền khiếu kiện tập thể có thể tạo cơ hội cho người tiêu dùng liên kết thành sức mạnh tập thể, nhằm gây sức ép buộc doanh nghiệp nhanh chóng chấm dứt sự vi phạm và khắc phục hậu quả đã gây ra. Mặt khác, sự liên kết của các cá nhân trong cùng vụ việc có thể giúp người tiêu dùng vượt qua tâm lý ngại tranh chấp, ngại phiền hà để đấu tranh bảo vệ các quyền lợi đã được pháp luật ghi nhận.
Ngoài ra, người tiêu dùng cần được trao quyền kêu gọi cộng đồng tẩy chay một sản phẩm hoặc một doanh nghiệp cụ thể để tạo nên sức ép đối với người có hành vi vi phạm. Hiện tượng tẩy chay tập thể đối với một hoặc các sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện sức mạnh tối cao của quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. Đã rất lâu, người tiêu dùng Việt Nam quên mất sức mạnh của họ trước doanh nghiệp. Thế nên, khả năng liên kết trong cộng đồng người tiêu dùng cũng trở nên manh mún, yếu ớt. Có lẽ, không có biện pháp trừng phạt nào nặng nề hơn đối với doanh
nghiệp bằng việc người tiêu dùng (theo nghĩa rộng) quay lưng lại với sản phẩm của họ. Do đó, nếu pháp luật tạo được môi trường để người tiêu dùng sử dụng triệt để quyền lựa chọn (bao gồm quyền chấp nhận và quyền từ chối) thì quy luật nghiệt ngã của thị trường sẽ tự trừng phạt người vi phạm mà chưa cần đến những chế tài của pháp luật. Đương nhiên, khi xây dựng quy chế về quyền được tẩy chay tẩp thể, người có trách nhiệm xây dựng pháp luật cần nghiên cứu thấu đáo mọi khía cạnh để người tiêu dùng thực hiện quyền của mình trong trật tự và có giới hạn.
Thứ sáu, bên cạnh việc tích cực phát huy và bảo vệ quyền được lựa chọn của người tiêu dùng, pháp luật cần tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để người tiêu dùng sửu dụng dịch vụ thẻ tại NHTM tự thành lập các tổ chức của riêng họ. Trong đó, có một số yêu cầu sau đây cần được tôn trọng:
Một là, về nguyên tắc, khi thành lập các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng không nên đặt người tiêu dùng vào vị trí của đối tượng được bảo vệ thụ động mà cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của từng cá nhân người tiêu dùng. Các tổ chức của người tiêu dùng không nên có nhiệm vụ chính trị mà chỉ có vai trò cùng với các thành viên lên tiếng trước Nhà nước và công luận về các hành vi vi phạm của NHTM; là diễn đàn để thông tin và giúp tập thể người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại NHTM thực hiện các quyền cơ bản của họ, thậm chí kêu gọi các thành viên tẩy chay một sản phẩm, một NHTM cụ thể nếu có thái độ không thiện chí trong việc phục hồi quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Hai là, để người tiêu dùng tự thành lập các tổ chức của mình tùy theo nhu cầu hoặc sở thích, Nhà nước không nên tham gia chỉ đạo việc thành lập và hoạt động của các tổ chức này và cũng không nên xếp những tổ chức của người tiêu dùng vào nhóm các tổ chức chính trị – xã hội. Chỉ khi người tiêu dùng tự thành lập nên các tổ chức của riêng họ, từng cá nhân người tiêu dùng với vai trò là thành viên sẽ tích cực tham gia xây dựng và phát triển tổ chức. Ngược lại, các tổ chức của người tiêu dùng sẽ tích cực và triệt để tham gia vào các vụ việc khiếu nại, khởi kiện về hành vi vi phạm khi người chịu thiệt hại là thành viên của họ. Thực tiễn đang cho thấy, phần lớn tổ chức bảo vệ người tiêu dùng đang hoạt động không do người tiêu dùng thành lập. Ví dụ, Hội Khoa học kỹ thuật về tiêu chuẩn hóa, chất lượng và bảo vệ người tiêu
dùng Việt Nam (tên giao dịch là VINATAS) là một tổ chức tự nguyện được thành lập bởi những người hoạt động trong các lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng. Nhiệm vụ cơ bản của tổ chức này là các thành viên giúp nhau nâng cao trình độ nghề nghiệp, xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa chất lượng và góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [19]. Với nhiệm vụ trên, vai trò của VINATAS chủ yếu thể hiện ở việc đảm bảo quyền lợi của các thành viên tham gia. Thông qua những kết quả hoạt động như áp dụng các giải pháp để nâng cao chất lượng hoặc tiêu chuẩn hóa kỹ thuật … sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói chung. Tương tự, với những tổ chức khác, người tiêu dùng chỉ là đối tượng được bảo vệ mà chưa là thành viên. Vì thế, các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng hiện nay chưa thực sự phát huy được vai trò và chưa thực hiện trọn vẹn sứ mệnh đã đề ra. Thái độ lãnh đạm của người tiêu dùng trước sự tồn tại của các tổ chức này là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng trên.
Thêm vào đó, hiện nay chưa có một tổ chức nào chuyên về bảo vệ quyền lợi NTD liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng, các hiệp hội bảo vệ NTD mới chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực các sản phẩm hàng hoá dịch vụ sinh hoạt thông thường. Chính vì các sản phẩm tài chính quá phức tạp và có sự đổi mới liên tục, nên rất cần một tổ chức riêng biệt có đủ chuyên môn để có thể bảo vệ được quyền lợi người tiêu dùng trong riêng lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Hiện nay, nhu cầu tự lập hội đang phát triển bằng sự xuất hiện của những nhóm người có chung sở thích đối với một sản phẩm hoặc có chung một nhu cầu sử dụng
… Tuy nhiên, dù hoạt động có tổ chức, song các nhóm nói trên vẫn chưa thể là đại diện cho thành viên trong các tranh chấp về quyền lợi của người tiêu dùng do chưa có cơ hội được đăng ký hoạt động để mang tư cách pháp lý cần thiết. Cho dù số lượng thành viên không lớn, song nếu biết ghi nhận và phát triển, pháp luật có thể tạo điều kiện cho các nhóm người trên tự bảo vệ quyền lợi của họ một cách hiệu quả. Thế nên, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng cần xây dựng quy trình pháp lý để người tiêu dùng có thể thực hiện quyền được lập hội một cách thuận lợi. Có như vậy, cùng với sự tăng trưởng của thị trường và xã hội, ý thức vì cá nhân và cộng đồng của người tiêu dùng sẽ phát triển ở những mức độ tương xứng.