tối thiểu chung, quy định trên nhằm bảo toàn quỹ, đảm bảo mối tương quan giữa mức thụ hưởng và mức đóng góp giữa những NLĐ với nhau. Tuy nhiên, quy định trên lại tạo điều kiện thuận lợi cho NSDLĐ, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động có chất lượng cao. Quy định trên đã phần nào tạo ra sự thiệt thòi cho nhóm đối tượng có thu nhập cao, không nhận được khoản trợ cấp tương đương với lương khi xảy ra các sự kiện 37.
Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành nên từ sự đóng góp của NLĐ
với “Mứ c đóng hà ng thá ng bằng 16% mứ c thu nhâp
ngườ i lao đôn
g lưa
chon
đóng BHXH, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm môt lần đóng tăng thêm 2%, cho
đến khi đạt mức đóng 22%” “mứ c thu nhâp là m căn cứ tính đóng BHXH thấp
nhất bằng mứ c lương tối thiểu chung ”28. Đối tượng thuộc diện tham gia
BHXH tự nguyên
l à lao động tự do và nông dân , đối tươn
g này có thu nhâp
hàng tháng thấp , không ổn điṇ h , trong khi đó mứ c đóng BHXH tự nguyêṇ khá cao so với thu nhập c ủa người lao động nói chung . Ở thời điểm hiên
là tai
mứ c đóng BHXH t ự nguyện thấp nhất là 210.000 đồng/tháng, mức đóng trên đối với thu nhập NLĐ ở Việt Nam hiện nay là cao. Chúng ta thấy rằng, mức đóng góp của NLĐ tham gia BHXH tự nguyện cao gấp 3 lần so với NLĐ tham gia BHXH bắt buộc, đây sẽ là gánh nặng kinh tế trước mắt cho NLĐ khi muốn tham gia vào loại hình BHXH tự nguyện trong điều kiện thu nhập không cao và nhất là khi họ chưa thực sự hiểu được tác dụng của việc tham gia BHXH tự nguyện.
Quỹ BHTN được hình thành từ sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước với mức 1% tiền lương của NLĐ cho mỗi bên. Trong giai đoạn mới tiến hành áp dụng loại hình BHTN thì mức đóng trên là tương đối hợp lí, tuy nhiên, trong tương lai cần rút dần sự tham gia của Nhà nước đối với quỹ BHTN, đảm bảo rằng Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ quỹ BHTN.
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật BHXH ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội bắt buộc
2.2.1.1. Thực trạng mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Mặc dù đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc hiện hành bao gồm NLĐ thuộc khu vực chính thức và NLĐ thuộc khu vực phi chính thức. Song thực tế NLĐ tham gia BHXH bắt buộc chủ yếu thuộc khối hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp, NLĐ thuộc khu vực phi chính thức tham gia chiếm tỷ trọng không đáng kể, điều này được thể hiện rõ qua số liệu thống kê số người tham gia BHXH hàng năm.
Bảng 2.1. Số đối tượng tham gia BHXH giai đoạn 2007- 2011
Đơn vị: Người
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | |
BHXH bắt buộc | 8.172.502 | 8.539.467 | 8.901.170 | 9.441.246 | 10.104.497 |
BHXH tự nguyện | 6.110 | 41.193 | 81.319 | 96.400 | |
BHTN | 5.993.300 | 7.206.163 | 7.919.228 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Loại Hình Của Bảo Hiểm Xã Hôị
- Thực Trạng Các Qui Định Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội
- Thực Trạng Các Quy Định Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện
- Mức Đóng Bình Quân Bhxh Tự Nguyện Giai Đoạn 2008- 2011
- Những Yêu Cầu Đặt Ra Đối Với Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Ở Việt Nam
- Những Giải Pháp Cơ Bản Nhằm Hoàn Thiện Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Nguồn: BHXH Việt Nam
Bảng 2.2. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo loại hình quản lý giai đoạn 2007- 2011
Đơn vị: người
Loại hình quản lý | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | |
1 | HCSN, Đảng, ĐT, LLVT | 3,226,873 | 3,128,209 | 3,269,951 | 3,302,175 | 3,448,822 |
2 | Ngoài công lập | 110,861 | 119,033 | 124,034 | 127,104 | 125,733 |
3 | Xã, phường, thị trấn | 210,834 | 212,800 | 211,754 | 211,436 | 222,564 |
4 | DN Nhà nước | 1,367,167 | 1,315,102 | 1,282,490 | 1,267,972 | 1,252,023 |
5 | Doanh nghiệp FDI | 1,525,406 | 1,753,800 | 1,752,504 | 2,014,144 | 2,305,999 |
6 | DN Ngoài quốc doanh | 1,677,765 | 1,951,153 | 2,166,009 | 2,451,911 | 2,681,178 |
7 | Lao động có thời hạn ở nước ngoài | 3,977 | 2,435 | 1,970 | 2,203 | 2,224 |
8 | Đối tượng khác | 49,619 | 56,935 | 92,458 | 64,301 | 65,954 |
Tổng cộng | 8,172,502 | 8,539,467 | 8,901,170 | 9,441,246 | 10,104,497 |
Nguồn: BHXH Việt Nam
Theo số liệu thống kê, chúng ta thấy nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chiếm tỷ lệ cao là khối hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, Lực lượng vũ trang; tiếp theo đó khu vực doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng từ 2,451,911 người năm 2010, đến năm 2011 tăng lên đến 2,681,178 người, điều này thể hiện rõ nét của sự chuyển biến trong việc tuân thủ pháp luật và quan tâm đến quyền lợi NLĐ trong khu vực tư nhân.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh qua các năm : năm 2006
(trước khi thưc
hiên
Luât
BHXH ) có 6,746 triêu
người tham gia BHXH , thì
năm 2007 tổng số đối tươn
g tham gia là 8,172 triêu
người, tăng 21,2 % so với
năm 2006; năm 2008 là 8,5 triêu
người ; năm 2009 là 8,9 triêu
người ; năm
2010 là 9,4 triêu
người , năm 2011 là 10,1 triêu
người (tăng 6,7% so với năm
2010) (bảng 2.2). Tuy nhiên , số đối tươn
g tham gia còn chiếm tỷ lê ̣kha
khiêm tốn so với đối tươn
g thuôc
diên
tham gia : theo số liêu
ước tính thì tỷ lê
số người đang tham gia BHXH bắt buôc
mới chiếm khoảng 20% lưc
lương
lao đôṇ g và khoảng 80% số người thuôc
diên
phải tham gia BHXH bắt buôc
trên cả nước, sẽ còn khoảng 20% đối tương tương đương với khoảng 2,5 triêu
người thuôc
đối tươn
g áp duṇ g nhưn g chưa tham gia BHXH bắt buôc
. Số đối
tươn
g này chủ yếu là lao đôṇ g trong các doanh nghiêp
vừ a và nhỏ , trong các
Hơp
tác xã , hô ̣kinh doanh c á thể có thuê mướn , sử duṇ g và trả công cho
người lao đôṇ g . Sở dĩ có hiên
tươn
g trên là do nhân
thứ c của môt
bô ̣phân
NLĐ và NSDLĐ về chính sách BHXH còn han
chế , hoạt động tuyên truyền
chưa thưc
sự phù hơp
với từ ng nhó m đối tươn
g tham gia . Doanh nghiêp tư
nhân phát triển maṇ h nhưng qui mô còn nhỏ , số lao đôṇ g khá mỏng , thiếu tính ổn định , nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh mở ra có sử duṇ g lao đôṇ g
nhưng không ký hơp
đồng lao đôṇ g , không đăng kí sử dụng lao động gây khó
khăn cho viêc
quản lí đối tươn
g tham gia BHXH . Đặc biệt, thiếu cơ chế phối
hợp giữa tổ chức BHXH với các cơ quan liên quan như Kế hoạch - Đầu tư, Thuế, Lao động - Thương binh và Xã hội.
2.2.1.2. Thực trạng hoạt động thu bảo hiểm xã hội
Trong giai đoan
năm 2007-2011, số thu từ đóng góp của người lao đôṇ g
và người sử dụng lao động không ngừ ng tăng qua các năm .
Bảng 2.3. Số tiền thu BHXH từ đóng góp của NLĐ và NSDLĐ
giai đoạn 2007- 2011
Đơn vị: tỷ đồng
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | |
Quỹ BHXH bắt buộc | 23.768,7 | 30.939,4 | 37.487,9 | 49.740,0 | 62.257,6 |
Quỹ BHXH tự nguyện | 10,8 | 69,4 | 174,4 | 251,2 | |
Quỹ BHTN | 3.510,7 | 5.400,3 | 6.747,1 | ||
Tổng cộng | 23.768,7 | 30.950,2 | 41.068,0 | 55.314,7 | 69.256,9 |
Nguồn: BHXH Việt Nam
Số thu BHXH bắt buộc năm 2007 đat 23.768 tỷ đồng; năm 2008 số thu
đạt 30.939 tỷ đồng, năm 2009 số thu đạt 37.487 tỷ đồng; năm 2010 số thu đạt 49.740 tỷ đồng (là năm đầu tăng tỷ lệ đóng BHXH vào quỹ hưu trí v à tử tuất); năm 2011 số thu từ đóng góp NLĐ và NSDLĐ vào quỹ BHXH bắt
buôc
là 62.257 tỷ đồng, tăng 23.3% so với năm 2010 và đạt 106% so với dư
toán được giao (bảng 2.3).
Công tác thu BHXH đat
đươc
những kết quả nêu trên là do cơ quan
BHXH đã áp duṇ g nhiều biên
pháp , trong đó có các biên
pháp nhằm han
chế
tình trạng chậm đóng , nơ ̣ đóng BHXH như : thu lai
do châm
đóng ; đăng tên
các đơn vị nợ BHXH trên báo ; điṇ h kỳ hàng tháng báo cáo cấp ủy và chín h
quyền đia
phương tình hình thưc
hiên
chế đô ̣ , chính sách BHXH trên địa bàn
để xin ý kiến chỉ đạo ; thành lập tổ chỉ đạo thu nợ BHXH liên ngành ở cấp
tỉnh; tăng cường viêc
khởi đôṇ g để kiểm tra , đôn đốc viêc
thu nôp
BHXH kéo
dài và bám sát từng đơn vị sử dụng lao động để kiểm tra , đôn đốc viêc thu
nôp BHXH.
Măc
dù , đã đat
đươc
những kết quả trong công tác thu BHXH nhưng
tình trạng nợ đóng , châm
đóng BHXH vân
xảy ra khá phổ biến , tâp
trung chu
yếu ở các doanh nghiêp nước ngoà i.
ngoài quốc doanh và các doanh nghiêp
có vốn đầu tư
Bảng 2.4. Tình hình nợ đóng, chậm đóng BHXH giai đoạn 2007- 2011
Đơn vị: tỷ đồng
Đối tượng | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | |
BHXH bắt buộc | 1,733.90 | 2,286.20 | 2,093.7 | 2,472.0 | 4.496 | |
BH thất nghiệp | 76.0 | 374.7 | ||||
Tổng số | 1,733.90 | 2,286.20 | 2,093.7 | 2,548.0 | 4,870.9 |
Nguồn: BHXH Việt Nam
Đến năm 2011 số nợ đóng BHXH bắt buộc là 4.496 tỷ đồng, tương ứ ng
với 7,23% số phải thu BHXH bắt buôc
. Số tiền nơ ̣ đóng , châm
đóng BHXH
tâp
trung chủ yếu ở khu vưc
doanh nghiêp
, chiếm trên 90% tổng số tiền nơ
đóng, châm
đóng BHXH ; trong đó doanh nghiêp
quốc doanh chiếm 42%,
doanh nghiêp
có vố n đầu tư nước ngoài chiếm 32,4%, doanh nghiêp
Nha
nước chiếm 19,4% (bảng 2.4). Trong tổng số tiền nơ ̣ đóng BHXH nêu trên thì
có gần 50% số nơ ̣ từ 6 tháng trở lên , môt số đơn vi ̣nơ ̣ keó dài và nhiêù nguy
cơ không còn khả năng đó ng và truy đóng BHXH .
Luật BHXH quy định việc đóng BHXH thực hiện theo mức tiền lương, tiền công tháng ghi trên hợp đồng lao động. Lợi dụng kẽ hở này, ngoài việc không thực hiện giao kết hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng thời vụ ngắn hạn (dưới 3 tháng), ký hợp đồng lao động ngắn hạn nhiều lần. Các doanh nghiệp còn trốn đóng BHXH với hình thức: ghi mức lương trong hợp đồng thấp hơn mức lương thực trả rất nhiều lần (nhiều doanh nghiệp chỉ đóng BHXH cho NLĐ bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định) để số tiền nộp BHXH ít đi. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam thì mức lương tháng bình quân đóng BHXH của doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2010 là
1.598.000 đồng/tháng; năm 2011 tăng lên nhưng chỉ ở mức 1.940.000 đồng/tháng. Mức lương làm căn cứ đóng BHXH này là thấp so với thu nhập trên thực tế của NLĐ
Trên thực tế còn nhiều doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng BHXH với số tiền lớn, thời gian kéo dài, có nhiều doanh nghiệp đã trích tiền đóng BHXH của NLĐ nhưng lại không đóng BHXH cho họ. Vi phạm này đang tồn tại phổ biến đặc biệt tại các khu công nghiệp lớn, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước ở TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai... Số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN trong năm luôn ở con số rất lớn và đến cuối năm
khi tổ chức BHXH tăng cường kiểm tra, đốc thu, tạo sức ép phải hoàn thành kế hoạch năm thì các đơn vị sử dụng lao động mới nộp được phần nào.
Sở sĩ có hiên
tươ ̣ ng chưa đóng , châm
đóng BHXH hoặc đóng không
đúng với số người thuộc diện đóng BHXH hiện nay trên thực tế là do nhiều nguyên nhân:
Hiện nay, mức xử phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm BHXH rất nhẹ, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nợ đọng BHXH kéo dài. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/08/2010 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH cho phép mức phạt tối đa là 30 triệu đồng, tuy nhiên mức phạt trên là thấp nếu đem so sánh với số tiền lãi mà doanh nghiệp nhận được khi đem gửi số tiền phải đóng BHXH vào ngân hàng 37.
Thẩm quyền xử phạt các doanh nghiệp vi phạm pháp luật BHXH là Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, tuy nhiên, đội ngũ thanh tra ngành LĐTBXH hiện nay còn khá mỏng và thực hiện công tác thanh tra BHXH thường kết hợp với thanh tra các lĩnh vực khác như pháp luật về lao động, việc làm, tiền lương nên hiệu quả chưa cao, chưa toàn diện. Việc xử lí các trường hợp vi phạm còn xảy ra nhiều trường hợp chưa triệt để, nghiêm túc, hiện tượng nể nang trong xử lí vi phạm còn xảy ra ở nhiều địa phương.
Ngoài ra, tại khoản 3, Điều 138 Luật BHXH có quy định:
NSDLĐ có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 134 của Luật này từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật thì còn phải đóng số tiền lãi của số tiền chưa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong năm 28.
Theo đó Thanh tra ngành LĐTBXH có thể buộc trích tiền từ tài khoản gửi của NSDLĐ để nộp tiền BHXH chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi phát
sinh. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế không khả thi bởi một doanh nghiệp có tài khoản tại nhiều ngân hàng, Ngân hàng không hợp tác với lực lượng thanh tra mà giữ kín thông tin để giữ chân khách hàng. Không xác định được tài khoản thực của doanh nghiệp thì việc đưa doanh nghiệp trốn BHXH ra tòa cũng khó đòi được nợ ngay và cả khi thắng kiện 37.
Đặc biệt, ở Việt Nam, chế tài hình sự có thể áp dụng một số tội danh đã có trong Bộ luật hình sự để xử lý đối với một số dạng hành vi. Song, đối với những hành vi có tính chất nguy hiểm của tội phạm nhưng do chưa có quy định riêng về tội phạm trong lĩnh vực BHXH nên không thể xử lý hình sự, một số hành vi khác có thể xử lí nhưng có sự không thống nhất trong áp dụng tội danh cũng như mức hình phạt nên đã bộc lộ những hạn chế nhất định.
2.2.2. Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH tự nguyện thực hiện ở nước ta bắt đầu từ 1/1/2008 đối với đối tượng là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định trong Luật BHXH . Tuy tỷ lê ̣tham gia chưa nhiều, nhưng số lượng người tham gia loại hình BHXH tự nguyện gia tăng hàng năm . Năm 2008 - năm đầu tiên triển khai chính sách BHXH tự
nguyên
số người tham gia là 6.110 người, năm 2009 là 41.193 người; năm
2010 là 81.319 người. Năm 2011 là 96.400 người, tăng 15,7 lần so vớ i năm 2008 (Bảng 2.1).
Tuy nhiên , trong số đối tươn
g tham gia BHXH tự nguyên
thì có trên
70% là số người trước đó đã có thời gian tham gia BHXH bắt buộc , nay tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện để đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định. Những cán bộ bán chuyên trách cấp xã được chính quyền địa phương
hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện, sau khi nghỉ viêc đóng tiêṕ BHXH tư
nguyên
để đủ điều kiên
về thời gian đóng BHXH để hưởng chế đô ̣hưu trí . Sô
người tham gia BHXH tự nguyện còn hạn chế , chỉ chiếm khoảng 0.22% số