Cơ sở của việc vận dụng lý thuyết kinh tế học pháp luật vào việc nghiên cứu đề tài luận án là do những vấn đề kinh tế - pháp lý mà xã hội đang phải đối mặt sẽ khó được giải quyết nếu chỉ dựa vào các giải pháp kinh tế hoặc pháp lý thuần tuý, mà thay vào đó phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai giải pháp này. Xét về phương pháp, kinh tế học pháp luật sử dụng phương pháp cơ bản là phân tích chi phí/lợi ích, theo đó mọi quy phạm pháp luật, hành vi pháp lý và giải pháp pháp lý đều được đánh giá từ góc độ so sánh chi phí và lợi ích. Chẳng hạn, khi ban hành một quy phạm mới thì sẽ gây ra những thiệt hại và lợi ích gì cho xã hội? Liệu có giải pháp nào thay thế cho việc ban hành quy phạm đó hay không? Đối với người thực hiện pháp luật, bên cạnh việc phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật thì còn tính đến các yếu tố nguồn lực và các điều kiện bảo đảm thực hiện các quy phạm đó cho hiệu quả nhất.
Áp dụng lý thuyết kinh tế học pháp luật vào việc nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM sẽ gợi mở ra nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ như làm cách nào để dự đoán, đo lường được tác động của pháp luật đến sự an toàn trong HĐCTD của các NHTM? Chẳng hạn, việc xây dựng và ban hành một quy phạm pháp luật mới sẽ có khả năng thay đổi, tác động đến hoạt động ngân hàng như thế nào? Hiệu quả của quy phạm ấy ra sao? Mối quan hệ giữa pháp luật và mức độ hiệu quả trong việc điều chỉnh sự an toàn trong HĐCTD của các NHTM như thế nào?...
b) Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội
Những lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Cho đến nay đã có ba lý thuyết sau đây:
Một là, lý thuyết về tự do kinh tế: Lý thuyết này đề cao vai trò của thị trường, ủng hộ tự do kinh tế và hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của nhà nước. Lý thuyết này ra đời từ nửa cuối thế kỷ XVIII và trở thành trường phái thống trị cho tới đầu thế kỷ XX với các đại biểu chính: A. Smith, J.B.Say, T.R. Maithus, J.S.Mill, D. Ricardo; trong đó tiêu biểu nhất là A.Smith (1723-1790) với thuyết “Bàn tay vô hình”38. Theo các học giả ủng hộ lý thuyết này, sự phát triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước và nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Nhà nước chỉ cần thực hiện tốt
các chức năng quản lý cơ bản là xây dựng thể chế pháp luật để giữ gìn trật tự kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu, bảo vệ an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đất nước.
Nếu vận dụng lý thuyết này khi nghiên cứu đề tài luận án chúng ta thấy, bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM là công việc tự thân của các ngân hàng và của thị trường tài chính ngân hàng, vì vậy nhà nước hạn chế hoặc thậm chí không cần can thiệp vào sự an toàn của các ngân hàng. Những ngân hàng hoạt động hiệu quả, an toàn
38 Nguyễn Hồng Sơn, “Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong một số lý thuyết về kinh tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2015, tr 16.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Pháp Luật Về Bảo Đảm An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Các Biện Pháp Bảo Đảm An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Tiếp Cận Ở Góc Độ Xử Lý Rủi Ro
- Tác Động Của Hoạt Động Cấp Tín Dụng Đến Nền Kinh Tế Xã Hội
- Nguyên Nhân Của Rủi Ro Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Nhtm
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Sự An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
thì sẽ tự đứng vững và phát triển trong nền kinh tế. Ngược lại, các ngân hàng kém hiệu quả, mất an toàn thì sẽ bị đào thải, chấm dứt hoạt động.
Hai là, lý thuyết kinh tế có điều tiết: Đây là lý thuyết về nền kinh tế có sự can thiệp mạnh của nhà nước do J.M. Keynes (1884-1946) đề ra. Lý thuyết này khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong nền kinh tế và nhấn mạnh thị trường không thể tự khắc phục khủng hoảng kinh tế cũng như các vấn đề khác của nền kinh tế. Nhằm đảm bảo cho sự cân bằng của nền kinh tế và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần có sự giúp sức của “bàn tay hữu hình” của nhà nước. Về sau, trên cơ sở lý thuyết kinh tế của điều tiết của Keynes, trường phát Keynes
mới ra đời và phát triển với những xu hướng vận dụng mới39, trong đó cũng đề cao vai
trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, đồng thời nhấn mạnh công cụ kế hoạch của nhà nước và chính sách tài chính của nhà nước. Nhìn chung, những người ủng hộ học thuyết này đều cho rằng nhà nước cần can thiệp thích hợp, gián tiếp vào thị trường thông qua việc định ra đường lối phát triển, khung pháp luật, môi trường, thể chế cho các tổ chức, cá nhân đi đúng hướng chứ nhà nước không làm thay thị trường.
Nếu vận dụng lý thuyết này khi nghiên cứu đề tài luận án chúng ta thấy, nhà nước cần can thiệp mạnh mẽ vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, đặc biệt là sự an toàn trong HĐCTD của các NHTM.
Ba là, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp: Đây là lý thuyết ra đời từ thế kỷ XIX, được P.A. Samuelson nâng lên thành tư tưởng chủ yếu trong “kinh tế học” của mình với chủ trương muốn phát triển kinh tế phải dựa vào cả “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” là thị trường và nhà nước40. Nội dung của lý thuyết này dựa trên cơ sở: thị trường cần được kiểm soát thông qua sự chỉ huy vô hình của các quy luật kinh tế thị trường, còn nhà nước nên có chức năng quản lý kinh tế bằng sự điều tiết, kiểm soát thị
trường do tự thân thị trường không thể giải quyết được các vấn đề như khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp...Vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là thiết lập hệ thống pháp luật, thúc đẩy thị trường hoạt động có hiệu quả, đảm bảo sự công bằng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Vận dụng lý thuyết này vào việc nghiên cứu đề tài luận án chúng ta thấy, bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM không chỉ là vấn đề tự thân của mỗi ngân hàng và hệ thống ngân hàng, mà còn là vấn đề hệ trọng đối với nền kinh tế và nhà nước, vì vậy nhà nước cần điều tiết hợp lý HĐCTD thông qua pháp luật nhằm bảo đảm sự an toàn, ổn định, hiệu quả HĐNH, góp phần tích cực cho sự phát triển nền kinh tế nói chung.
c) Lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường
39 Nguyễn Hồng Sơn, Tlđd (số 38), tr 19.
40 Nguyễn Hồng Sơn, Tlđd (số 38), tr 20.
Hiệu quả của pháp luật là yếu tố rất quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, là “cái đích” của sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Vấn đề hiệu quả của pháp luật cũng được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu như Kerimov, Phaculin, Truliukin...(Liên Xô cũ). Ở Việt Nam, một số học giả tập trung nghiên cứu về hiệu quả của pháp luật như giáo sư Đào Trí Úc, Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan... Về cơ bản, hiệu quả của pháp luật là sự so sánh giữa kết quả đạt được do sự điều chỉnh, tác động của pháp luật mang lại, trong những phạm vi và điều kiện nhất
định, biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội, phù hợp với những mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật, với mức chi phí thấp41. Nhìn chung, tiêu chí đánh giá hiệu quả của pháp luật vừa thể hiện trong bản thân pháp luật, vừa thể hiện trong môi trường tác động của nó. Đối với bản thân pháp luật thì đó là chất lượng của pháp luật, những mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật. Còn đối với môi trường tác động của pháp luật thì đó là kết quả tác động của pháp luật thể hiện ở trạng thái của
các quan hệ xã hội trước và sau khi có sự điều chỉnh, tác động của pháp luật cùng với mức chi phí để đạt được các kết quả đó42.
Áp dụng lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa không những trong việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật trong việc bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, mà còn tạo những cơ sở quan trọng cho những định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở Việt Nam.
1.5.2. Phương pháp nghiên cứu
1.5.2.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời, luận án còn dựa trên cơ sở các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HĐNH và bảo đảm an toàn HĐNH, về đường lối phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
1.5.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau như: phân tích, phân tích - tổng hợp, thống kê và so sánh luật học, cụ thể như sau:
a) Phương pháp phân tích và phân tích – tổng hợp
Phương pháp phân tích, phân tích – tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận án nhằm xác định, đánh giá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm
41 Nguyễn Minh Đoan (2012), Hiệu quả của pháp luật, những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, tr 30.
42 Nguyễn Minh Đoan (2012), Tlđd (số 41), tr 39.
an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua việc làm sáng tỏ sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM, khái niệm, vai trò, nội dung và yêu cầu của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Bên cạnh đó, phương pháp này còn đánh giá và làm sáng tỏ thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Trên cơ sở đó, các phương pháp này cũng được sử dụng triệt để trong việc đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.
b) Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng để mô tả, đánh giá những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài cũng như những quan điểm của các nhà khoa học về những nội dung liên quan đến việc nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng trong chương 3 (thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM) nhằm thống kê có hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Việc sử dụng phương pháp này sẽ đảm bảo cho việc phân tích, đánh giá luận án được toàn diện hơn. Khi sử dụng phương pháp này, tác giả có kết hợp giữa thống kê mô tả và thống kê suy luận.
c) Phương pháp so sánh luật học
Phương pháp này được sử dụng nhằm thể hiện mối tương quan, đối chiếu và đánh giá những quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của Việt Nam ở những thời kỳ khác nhau cũng như giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia trên thế giới và thông lệ quốc tế về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng. Sử dụng phương pháp này cho thấy những thay đổi theo hướng tích cực của pháp luật Việt Nam về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM trong thời gian vừa qua; những ưu điểm của pháp luật các quốc gia về an toàn trong HĐNH mà Việt Nam có thể tham khảo.
Bên cạnh đó, phương pháp so sánh luật học còn được sử dụng để đánh giá, phân tích các quan điểm khoa học trong chương 1 (tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài) cũng như các quan điểm của các nhà khoa học đối với các nội dung liên quan đến đề tài luận án. Việc sử dụng phương pháp này tạo điều kiện cho tác giả luận án làm sáng tỏ các vấn đề cơ sở lý luận của bảo đảm an toàn và pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan.
Các phương pháp phân tích, phân tích – tổng hợp, thống kê và so sánh luật học được sử dụng kết hợp và bổ trợ cho nhau trong từng nội dung của đề tài luận án nhằm đạt được mục đích nghiên cứu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã nêu và phân tích được tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến bốn nội dung gồm: (i) Tình hình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; (ii) Tình hình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; (iii) Tình hình nghiên cứu liên quan đến các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại dưới góc độ phòng ngừa rủi ro; (iv) Tình hình nghiên cứu liên quan đến các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại dưới góc độ xử lý rủi ro. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu đề tài luận án. Trên cơ sở những nghiên cứu đó và bằng phương pháp chủ đạo là phân tích, phân tích – tổng hợp, thống kê và so sánh, tác giả đưa ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi, nội dung khác nhau. Những nghiên cứu đó có thể được tác giả đề tài luận án chọn lọc và tiếp thu, đặc biệt là những nghiên cứu về nội dung của bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại thông qua việc phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro;
Thứ hai, nhiều vấn đề tuy đã được các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến, nhưng vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng như đề xuất các giải pháp hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này dựa trên nền tảng lý thuyết phù hợp và khoa học;
Thứ ba, tác giả đề tài luận án nhận thấy việc nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại là vấn đề mới, có ý nghĩa thực sự về mặt khoa học cũng như thực tiễn trong bối cảnh của nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay;
Thứ tư, tác giả phân tích cơ sở lý thuyết trong việc nghiên cứu đề tài luận án, thông qua việc xác định ba câu hỏi nghiên cứu chính tương ứng với các nội dung chính cần phải giải quyết trong đề tài, cùng với đó là các giả thuyết nghiên cứu và dự kiến kết quả nghiên cứu. Luận án cũng triển khai dựa trên các lý thuyết nghiên cứu chính là cách tiếp cận kinh tế học pháp luật; lý thuyết về sự can thiệp của Nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội và lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Sự tất ếu phải bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1.1.Hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại và những rủi ro của nó
2.1.1.1. Bản chất hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
Đi tìm bản chất HĐCTD của NHTM có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động này. Trên thực tế, cấp tín dụng được coi là hoạt động chủ yếu và rất quan trọng của NHTM.43
HĐCTD của NHTM được quy định trong Hiệp định thương mại dịch vụ của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)44. Theo đó, nó được coi là một dịch vụ tài chính, bao gồm hoạt động cho vay dưới tất cả các hình thức, như tín dụng tiêu dùng, tín dụng cầm cố thế chấp, bao thanh toán và tài trợ giao dịch thương mại, bảo lãnh và cam kết.
Theo Khoản 14, Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, cấp tín dụng là việc TCTD thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Từ quy định trên của pháp luật chúng ta thấy, cấp tín dụng là giao dịch về tài sản giữa tổ chức tín dụng và khách hàng (tổ chức, cá nhân), theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết chuyển giao nguồn vốn tín dụng cho khách hàng; khách hàng sử dụng vốn tín dụng đó có thời hạn, có hoàn trả bằng nhiều nghiệp vụ tín dụng khác nhau theo quy định.
Cấp tín dụng được thực hiện bởi nhiều TCTD khác nhau, trong đó NHTM là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất, thực hiện cấp tín dụng đa dạng và chuyên nghiệp nhất45. Trong việc nghiên cứu khái niệm HĐCTD của NHTM, tác giả cho rằng cấp tín dụng của NHTM là việc NHTM thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng, phát hành thẻ tín dụng và
các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Bản chất HĐCTD của NHTM được thể hiện dưới hai khía cạnh là bản chất kinh tế và pháp lý.
43 Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Vietcombank, năm 2015, tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản của ngân hàng này là 57,4%. Năm 2016, tỷ lệ trên là 58,5%. Đối với Vietinbank, vào hai năm 2015, 2016, tỷ lệ trên lần lượt là 78,2% và 76%. Ở các ngân hàng khác cũng cho thấy tỷ trọng lớn của tín dụng trong tổng tài sản. 44 Tổ chức Thương mại thế giới, Hiệp định thương mại dịch vụ (tài liệu WT/ACC/VNM/48/Add.2 27/10/2006). 45 Nguyễn Ngọc Lương (2017), tlđd (số 8), tr 34.
Xét về bản chất kinh tế, cấp tín dụng của NHTM là mối quan hệ về kinh tế giữa NHTM với các tổ chức và cá nhân. Trong mối quan hệ này, NHTM giao hoặc cam kết giao cho khách hàng nguồn vốn tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất cấp tín dụng và lãi suất huy động vốn. Trong khi đó khách hàng sử dụng vốn tín dụng đó nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hay phục vụ nhu cầu đời sống của mình. Về cơ bản, cấp tín dụng của NHTM luôn gắn với một lượng giá trị
xác định, sự chuyển giao không đơn thuần một lượng tiền (hoặc tài sản) nhất định, với điều kiện phải trả lại có lợi tức46.
Trong HĐCTD, các NHTM sử dụng nguồn vốn tự có và vốn huy động để cấp tín dụng cho khách hàng, trong đó vốn huy động là chủ yếu. Vốn tự có bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác theo quy định của NHNN. Vốn huy động bao gồm bốn dạng cơ bản là tiền gửi của các tổ chức và cá nhân; vốn có được từ phát hành các giấy tờ có giá, vốn vay NHNN và vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác. Để bảo đảm hiệu quả của nguồn vốn cũng như bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, các NHTM luôn phải bảo đảm khả năng thanh khoản nhằm hoàn trả gốc và lãi cho những người gửi tiền. Chính vì thế, việc giám sát tín dụng và quản lý rủi ro luôn được pháp luật quy định chặt chẽ và NHTM thực hiện một cách cẩn trọng.
Bên cạnh đó, cơ sở cho NHTM thực hiện HĐCTD là có sự tín nhiệm của NHTM đối với khách hàng. Điều đó nghĩa là NHTM có sự tin tưởng về khả năng hoàn trả gốc và lãi của khoản tín dụng từ khách hàng. Nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả gốc và lãi của khoản tín dụng đã được cấp thì NHTM sẽ gặp rủi ro.
Xét về bản chất pháp lý, HĐCTD của NHTM thiết lập một quan hệ pháp luật mà chủ thể của quan hệ này bao gồm ít nhất 2 bên: bên cấp tín dụng là các NHTM được thành lập và hoạt động hợp pháp; bên được cấp tín dụng là các tổ chức và cá nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện tham gia quan hệ pháp luật tín dụng ngân hàng. Bên cạnh đó, khách thể của quan hệ cấp tín dụng là những lợi ích vật chất mà NHTM và khách hàng hướng tới. Đó có thể là một lượng tiền tệ nhất định hoặc các loại tài sản khác. Về nội dung, quan hệ cấp tín dụng giữa NHTM với khách hàng được thể hiện thông qua những quyền và nghĩa vụ pháp lý mang tính song vụ. Quyền của NHTM cũng là nghĩa vụ của khách hàng và ngược lại.
Tác giả đồng thuận với quan điểm của TS Nguyễn Ngọc Lương về vấn đề bản chất pháp lý của HĐCTD của NHTM còn được thể hiện dưới góc độ là một dạng của hoạt động vay tài sản trong dân sự47, bởi lẽ quan hệ cấp tín dụng của NHTM có đầy đủ các yếu tố của quan hệ vay tài sản như: tính chất thỏa thuận, có sự chuyển giao giao hoặc cam kết chuyển giao tài sản và sự hoàn trả tài sản vay. Tương tự như quan hệ cho vay tài
46 Nguyễn Ngọc Lương (2017), Tlđd (số 8), tr 32.
47 Nguyễn Ngọc Lương (2017), Tlđd (số 8), tr 37.
sản, trong quan hệ cấp tín dụng, khách hàng vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản vay theo Điều 464 BLDS năm 2015.
Một vấn đề pháp lý được đặt ra là các NHTM được thực hiện HĐCTD thông qua những nghiệp vụ nào? Sự khác nhau giữa các nghiệp vụ đó ra sao?
Qua khái niệm về HĐCTD của các NHTM như phần trên đã đề cập, tác giả nhận thấy, NHTM được thực hiện các nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Tuy có cùng một bản chất của HĐCTD, nhưng chúng đều có sự khác nhau ở những khía cạnh nhất định, cụ thể như sau:
Xét về hình thức pháp lý, hoạt động cho vay của NHTM được thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng cho vay (tên gọi có thể là hợp đồng tín dụng). Còn hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá lại được biểu hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Trong khi đó, các HĐCTD khác như bảo lãnh NH, bao thanh toán lại được biểu hiện bằng hình thức pháp lý tương ứng là hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng bao thanh toán. Sự khác nhau của các loại hợp đồng này cũng được thể hiện ở chỗ nếu hợp đồng cho vay là hợp đồng vay tài sản, thì hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá và hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng mua bán các trái quyền dân sự. Trong khi đó, hợp đồng bảo lãnh NH là hợp đồng dịch vụ bảo đảm. Tuy hình thức pháp lý có khác nhau, nhưng các loại hợp đồng này đều chứa đựng những rủi ro trong HĐCTD của NHTM, như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và các loại rủi ro khác.
Xét về mục đích, hoạt động cho vay của NHTM có mục đích là hưởng lãi cho vay thông qua việc giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn bảo lãnh NH có mục đích là hưởng phí dịch vụ bảo lãnh thông qua việc cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc NHTM sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho NHTM theo thỏa thuận. Trong khi đó, chiết khấu giấy tờ có giá và bao thanh toán có mục đích là hưởng lợi tức chiết khấu và bao thanh toán thông qua việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán hoặc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Xét về thời gian, đối với hoạt động cho vay, bảo lãnh và phát hành thẻ tín dụng, thời gian của các hoạt động này có thể là ngắn hạn, trung hoặc dài hạn tuỳ thuộc vào thoả thuận của các bên nhằm đáp ứng nhu cầu của việc sử dụng nguồn vốn tín dụng. Trong khi đó, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá và bao thanh toán lại có thời hạn ngắn.