Tác Động Của Hoạt Động Cấp Tín Dụng Đến Nền Kinh Tế Xã Hội


Thời hạn của tín dụng có ảnh hưởng tới mức độ rủi ro của NHTM khi cấp tín dụng cho khách hàng. Về cơ bản, thời gian của tín dụng càng dài thì mức độ rủi ro sẽ càng cao.

Xét về biện pháp bảo đảm tín dụng, hoạt động cho vay, bảo lãnh và phát hành thẻ tín dụng cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tín dụng, bởi vì biện pháp này mang tính phòng ngừa cho những rủi ro khi khách hàng không có khả năng hoàn trả gốc và lãi của khoản tín dụng đã được cấp. Đối với nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá và bao thanh toán thì giấy tờ có giá và khoản phải thu cũng như quyền truy đòi được xem như tài sản được bảo đảm.

HĐCTD của các NHTM có những khác biệt nhất định so với HĐCTD của các TCTD khác, thể hiện ở hai nội dung cơ bản:

Một là, về chủ thể và mục tiêu: HĐCTD của các NHTM được thực hiện bởi các NHTM. Đây là loại hình TCTD có thể thực hiện tất cả HĐNH và các hoạt động kinh doanh khác vì mục tiêu lợi nhuận. Trong khi đó, HĐCTD của các TCTD khác do các TCTD phi NH, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, NH hợp tác xã, NH phát triển... thực hiện với mục tiêu khá đa dạng, có thể vì lợi nhuận hoặc không.

Hai là, về phạm vi: HĐCTD của các NHTM bao gồm các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh NH, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng và các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận. Trong khi đó, HĐCTD của TCTD khác hẹp hơn so với NHTM, chẳng hạn công ty cho thuê tài chính chủ yếu thực hiện hoạt động cho thuê tài chính; NH hợp tác xã có hoạt động chủ yếu là điều hòa vốn và thực hiện các HĐNH đối với thành viên là các quỹ tín dụng nhân dân; quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu có hoạt động cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng là thành viên, cho vay đối với khách hàng không phải là thành viên theo quy định của NHNN...

Tóm lại, HĐCTD của NHTM là hoạt động cơ bản của NHTM được pháp luật quy định, theo đó, NHTM chuyển giao hoặc cam kết chuyển giao cho khách hàng nguồn vốn tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả, bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh NH, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng và các nghiệp vụ khác. Nghiên cứu bản chất HĐCTD của các NHTM là công việc đầu tiên trong việc làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, làm tiền đề cho việc nghiên cứu những vấn đề tiếp theo trong nội dung của đề tài luận án.

2.1.1.2. Tác động của hoạt động cấp tín dụng đến nền kinh tế xã hội

HĐNH nói chung và HĐCTD nói riêng có sự tác động rất lớn đến nền kinh tế xã hội tại mỗi quốc gia, bởi lẽ hoạt động này có tác động đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó bao gồm các NHTM, chủ thể được cấp tín dụng, người gửi tiền và toàn bộ nền kinh tế xã hội. Do đó, phân tích những tác động của HĐCTD là yêu cầu cần thiết.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

a) Tác động của hoạt động cấp tín dụng đến các ngân hàng thương mại

HĐCTD có tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Trước hết là những tác động có lợi của HĐCTD đối với các NHTM. Có thể nói rằng, cấp tín dụng là một trong ba hoạt động cơ bản của NHTM (cùng với hoạt động huy động vốn và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản). Hoạt động này mang lại thu nhập lớn nhất cho các NHTM. Không có HĐCTD, NHTM chỉ giống như tổ chức nhận tiền gửi thông thường, không mang đầy đủ đặc tính của một TCTD48. Để thực hiện HĐCTD, các NHTM dùng vốn tự có của mình và các khoản vốn huy động từ các tổ chức, cá

Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 6

nhân để cung cấp cho những lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống. Muốn tăng cung tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và gia tăng lợi nhuận thì các NHTM cần tăng vốn tự có (thông qua tăng vốn điều lệ, quỹ dự trữ) hoặc tăng vốn huy động (tăng nhận tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá, vay NHNN và các TCTD khác). Bên cạnh đó, các NHTM cần thiết lập và thực hiện tốt chiến lược thu hút khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng cung ứng dịch vụ tín dụng.

Ngược lại, có những tác động bất lợi cho các NHTM phát sinh trong HĐCTD. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong HĐCTD, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, thua lỗ dẫn đến phải tái cơ cấu...đã ảnh hưởng xấu đến năng lực cạnh tranh, uy tín, quy mô và phạm vi hoạt động của các NHTM. Điều này có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ khách quan lẫn chủ quan, song điều quan trọng nhất là nền tảng pháp luật điều chỉnh HĐCTD chưa được hoàn thiện, các NHTM chưa xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro hiệu quả và bền vững.

b) Tác động của hoạt động cấp tín dụng đến những chủ thể được cấp tín dụng

Chủ thể được cấp tín dụng là một bên trong quan hệ tín dụng với NHTM, bao gồm tổ chức và cá nhân. Thông qua HĐCTD của NHTM, chủ thể được cấp tín dụng sẽ thỏa mãn nhu cầu vốn đáp ứng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động. Bên cạnh đó, HĐCTD còn đáp ứng các nguồn lực tài chính cho các nhu cầu tiêu dùng và phục vụ đời sống của nhân dân.

c) Tác động của hoạt động cấp tín dụng đến người gửi tiền

Tuy không tham gia trực tiếp vào quan hệ cấp tín dụng, nhưng người gửi tiền lại giữ vai trò quan trọng của quan hệ này, vì người gửi tiền cung ứng “vốn nợ” cho các NHTM, tạo điều kiện cho các NHTM tăng nguồn vốn cho HĐCTD. Không có người gửi tiền, các NHTM khó có khả năng hoàn thành sứ mệnh trung gian nguồn vốn trong nền kinh tế. Về phần mình, HĐCTD có tác động trực tiếp đến người gửi tiền ở hai góc độ: thứ nhất, sự phát triển ổn định, hiệu quả của HĐCTD sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức và cá nhân gửi tiền tại các NHTM nhằm hưởng lãi, bảo toàn


48 Nguyễn Ngọc Lương (2017), Tlđd (số 8), tr 61.


nguồn vốn của mình. Ngược lại, nếu HĐCTD gặp rủi ro, không hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả gốc và lãi cho người gửi tiền, quyền lợi người gửi tiền bị ảnh hưởng, từ đó khó thu hút các khoản tiền nhàn rỗi từ dân chúng.

d) Tác động của hoạt động cấp tín dụng đến nền kinh tế xã hội

Thứ nhất, HĐCTD góp phần điều tiết nhu cầu về vốn trong nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường, một số chủ thể tạm thời có nguồn vốn nhàn rỗi nhưng ngược lại, một số tổ chức và cá nhân có nhu cầu vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. HĐCTD được coi là “cầu nối” để các chủ thể trên điều hoà vốn cho nhau. Thông qua hoạt động tín dụng, nguồn vốn được điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu, đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển giai đoạn 2016-2020 vào khoảng 4 triệu tỷ đồng, trong đó kênh ngân sách nhà nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu, kênh thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, nên chưa thể đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển (tổng vốn hóa thị trường chứng khoán hiện mới chỉ đạt khoảng trên 30% GDP, tương đương 1,8 triệu tỷ đồng). Như vậy trong thời gian tới, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển vẫn phụ thuộc phần lớn vào kênh tín dụng ngân hàng mà trực tiếp thông qua HĐCTD của các NHTM.

Thứ hai, HĐCTD góp phần phát triển đời sống, tạo công ăn việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

Thông qua quan hệ tín dụng, các chủ thể thoả mãn nhu cầu về vốn đầu tư kinh doanh, góp phần mở rộng hoạt động sản xuất và cải tiến kỹ thuật, từ đó giúp các doanh nghiệp có khả năng mang lại lợi nhuận cao, nâng cao thu nhập của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ngoài ra, HĐCTD còn bảo đảm nguồn vốn cho nhân dân, từng bước cải thiện đời sống. Bên cạnh việc cho vay thương mại đối với các tổ chức và cá nhân, vốn cấp tín dụng cũng là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như cho vay đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch giữa các vùng miền trong cả nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ ba, HĐCTD tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển, là đòn bẩy trong việc phát triển nền kinh tế

HĐCTD giữ vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình giúp nguồn vốn của nền kinh tế được lưu thông, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực vậy, HĐNH tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Khi tỷ lệ tín dụng trên tổng tài sản của ngân hàng càng cao thì càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.49 Nhờ HĐCTD, các doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình



49 Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thiên Kim, “Tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 19 (tháng 11-12/2014), tr 48.


thường mà còn mở rộng được sản xuất, áp dụng kỹ thuật mới, tăng khả năng cạnh tranh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, HĐCTD sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, duy trì mối quan hệ hữu cơ giữa sản xuất – lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội.

HĐCTD có tác động tích cực đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Trong thời gian gần đây, sự phát triển kinh tế bền vững đang được quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện. Ở Việt Nam, với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các NH đã dành nhiều nguồn vốn cho những dự án phát triển bền vững như: ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất (cho vay vốn mua thiết bị máy móc nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay trồng rừng…); phát triển nông thôn mới (vấn đề vệ sinh, nước sạch và môi trường nông thôn; giao thông nông thôn, chợ đầu mối…) có ý nghĩa trực tiếp trong phát triển bền vững và phát triển nền kinh tế xanh.

Tóm lại, HĐCTD của các NHTM có vai trò quan trọng và tác động lớn đến các NHTM, chủ thể được cấp tín dụng, người gửi tiền cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội. Việc thực hiện HĐCTD thiếu hiệu quả, mất an toàn sẽ ảnh hưởng xấu đến lợi ích của các chủ thể trên. Vì vậy, để phát huy những vai trò và tác động tích cực đó, HĐCTD cần được vận hành an toàn, dựa trên khung pháp lý phù hợp, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội.

2.1.1.3. Rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

a) Khái niệm và các loại rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của NHTM

Việc tìm hiểu rủi ro trong HĐCTD của NHTM có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu bản chất của bảo đảm an toàn trong HĐCTD, vì rủi ro chính là yếu tố gây mất an toàn trong HĐCTD của NHTM.

Cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM, chính vì thế nên đây cũng là hoạt động mang đến rủi ro chủ yếu của NHTM50. Như trên đã đề cập, mỗi nghiệp vụ cấp tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau. Sau đây là một số yếu tố quan trọng khi phân tích khái niệm rủi ro trong HĐCTD của các NHTM:

- Xét về nội dung, rủi ro thể hiện ở sự xuất hiện những sự cố, sự kiện hay là những hành vi nhất định diễn ra trong HĐCTD của NHTM. Cụ thể là những rủi ro trong hoạt động cho vay, bảo lãnh NH, chiết khấu, bao thanh toán, phát hành và sử dụng thẻ NH.

- Xét về tính chất, rủi ro có thể mang tính khách quan hoặc chủ quan. Nói cách khác, rủi ro có thể do nguyên nhân từ chính NHTM gây ra, có thể do khách hàng hoặc do các yếu tố khách quan gây nên.


50 Lê Văn Tề (2008), Tín dụng ngân hàng, NXB Giao thông vận tải, tr 5.


- Xét về sự nhận thức của con người đối với rủi ro, rủi ro có thể đo lường được, nhận thức được về nó. Chính vì vậy, trong khoa học và thực tiễn, NHTM không ngừng nghiên cứu, áp dụng các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro.

- Xét về thời điểm xuất hiện của rủi ro, rủi ro có thể xuất hiện bất ngờ, nhưng cũng có thể được dự báo trước.

- Xét về hậu quả, rủi ro mang đến những thiệt hại, tổn thất, thua lỗ, mất mát cho NHTM. Tuy nhiên, rủi ro cũng có thể đưa đến những lợi ích hay những cơ hội nào đó trong HĐCTD nếu NHTM áp dụng các biện pháp an toàn phù hợp và có hiệu quả.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, rủi ro trong HĐCTD của NHTM là những sự cố, sự kiện hay hành vi nhất định, có thể nhận thức và đo lường được nhưng khó dự đoán chính xác về thời điểm xuất hiện, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan và gây ra những thiệt hại, sự bất lợi hay tổn thất đối với NHTM trong HĐCTD.

Theo Ủy ban Basel về giám sát an toàn HĐNH51 (Ủy ban Basel), những rủi ro

trong HĐNH gồm: rủi ro tín dụng (credit risk), rủi ro thị trường (market risk), rủi ro vận hành hay rủi ro hoạt động (operational risk), rủi ro thanh khoản (liquidity risk), các loại rủi ro còn lại (residual risk) gồm rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng. HĐCTD của NHTM bao gồm các loại rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro chiến lược và rủi ro danh tiếng. Trong đó, rủi ro tín dụng là chủ yếu. Việc phân loại các nhóm rủi ro trong HĐCTD của NHTM có ý nghĩa không những để nhận biết toàn diện các loại rủi ro, mà còn tạo cơ sở cho việc phòng ngừa, xử lý rủi ro, bảo đảm an toàn HĐNH.

- Rủi ro tín dụng: là loại rủi ro do không hoàn trả và thực hiện nghĩa vụ của bên đối tác52. Đây là loại rủi ro chính trong HĐNH vì tín dụng là hoạt động cơ bản, thường chiếm khoảng 70% tổng số tài sản có của các NHTM53. Bên cạnh đó, tín dụng bao giờ cũng được hiểu là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang người đi vay, và khi kết thúc kỳ hạn tín dụng, nó sẽ quay về với điểm xuất phát ban đầu, cả vốn và lãi. Sự không quay lại hoặc chậm quay lại chính là rủi ro của tín dụng54.

- Rủi ro thị trường: là rủi ro của sự mất mát trên nội bảng và ngoại bảng từ việc thay đổi giá thị trường. Rủi ro thị trường bao gồm rủi ro lãi suất liên quan đến các công cụ và cổ phần trong sổ kinh doanh và rủi ro hối đoái, rủi ro hàng hóa trong NH55.


51 Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng được thành lập năm 1975 bởi 10 quốc gia phát triển tại Basel, Thụy Sỹ. Thành viên của Ủy ban này bao gồm đại diện ngân hàng trung ương và đại diện cơ quan giám sát hoạt động đối với những quốc gia mà hai nhiệm vụ này không do một cơ quan nắm giữ. Mục tiêu của Ủy ban Basel là thu hẹp khoảng cách về giám sát hoạt động ngân hàng trên phạm vi quốc tế qua việc theo đuổi hai nguyên tắc cơ bản: không ngân hàng nào hoạt động mà không bị kiểm soát và mức độ kiểm soát phải đầy đủ. Ủy ban đã ban hành 3 Hiệp ước: Basel 1 được ban hành năm 1988; Basel 2 được ban hành năm 2001, có hiệu lực vào năm 2006; Basel 3 được ban hành năm 2010, có hiệu lực đầy đủ vào năm 2019.

52 Basel Committee (1988), The International convergence of capital measurement and capital standard , đoạn 31.

53 Lê Văn Tề (2008), Tlđd (số 50), Phần lời nói đầu.

54 Lê Văn Tề (2010), Tín dụng ngân hàng, NXB Giao thông vận tải, tr 5.

55 Basel Committee (2004), International convergence of capital measurement and capital standards , đoạn 683.


Như vậy, rủi ro thị trường bao gồm các yếu tố cấu thành như: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro do sụt giảm thị giá chứng khoán và hàng hóa. Trong HĐCTD của NHTM phát sinh 2 loại rủi ro thị trường là rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối.

- Rủi ro hoạt động: là loại rủi ro bao trùm lên tất cả các loại rủi ro và đồng thời nó cũng là rủi ro khó lường nhất56. Theo Ủy ban Basel, rủi ro hoạt động được định nghĩa như là rủi ro của sự mất mát từ việc thiếu hoặc không có quy trình nội bộ, do con người và hệ thống hoặc từ những sự kiện bên ngoài. Định nghĩa này bao gồm rủi ro pháp lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và rủi ro danh tiếng57.

- Rủi ro chiến lược: là một phần của việc tương thích giữa mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp và chiến lược đề ra để đạt được mục tiêu này dựa trên các nguồn lực của doanh nghiệp, bao gồm cả nguồn lực hữu hình lẫn vô hình: các kênh thông tin, hệ thống điều hành doanh nghiệp, mạng lưới phân phối và quy mô quản lý.

- Rủi ro danh tiếng (rủi ro uy tín): là loại rủi ro do dư luận đánh giá xấu về NH, gây khó khăn cho NH trong việc tiếp cận các nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ NH58. Rủi ro danh tiếng được biểu hiện thông qua: (i) Chất lượng của HĐCTD chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, từ đó gây ra phản ứng tiêu cực lan rộng trong công chúng; (ii) Các hành vi lừa đảo NH, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh, tung tin đồn thất thiệt đối với NH.

Tóm lại, theo Ủy ban Basel, HĐCTD của NHTM tiềm ẩn nhiều loại rủi ro khác nhau. Mỗi loại rủi ro đều mang một bản chất riêng, tồn tại (biểu hiện) dưới nhiều dạng thức khác nhau.

b) Rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam Rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng nói chung

Ở góc độ chung, rủi ro trong HĐCTD của NHTM bao gồm:

Một là, rủi ro không thu hồi được vốn và lãi do các bên trong quan hệ cấp tín dụng vi phạm các quy định về những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng và giới hạn cấp tín dụng.

Cấp tín dụng là việc NHTM thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Khi thực hiện hoạt động này, NHTM cần phải tuân thủ những quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của mình. Để bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, pháp luật có dự liệu những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín


56 Đào Hải Hiền, “Quản trị rủi ro hoạt động – hành trang của ngân hàng thương mại bước vào hội nhập WTO”, Tạp chí Ngân hàng, số 23, tháng 12/2006, tr 26.

57 Basel Committee (2004), tlđd (số 55), đoạn 644.

58 Vũ Lê Quỳnh Giao, Nguyễn Thị Hiền Chi, “Quản lý rủi ro đối với hoạt động ngân hàng điện tử”, Tạp chí Ngân hàng, Số Chuyên đề năm 2005, tr 72.


dụng và giới hạn cấp tín dụng. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện hoạt động này, các bên vi phạm các quy định trên, gây ra rủi ro trong hoạt động của mình. Điều đó có thể dẫn đến việc NHTM không có khả năng thu hồi gốc và lãi của khoản tín dụng đó.

Hai là, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường phát sinh khi NHTM vi phạm các quy định về quản lý nội bộ và các quy định khác của pháp luật về bảo đảm an toàn.

Các quy định của pháp luật về tín dụng NH là cơ sở cho các NHTM xây dựng quy chế nội bộ của mình. Quy định nội bộ của NHTM là sự chi tiết hoá các quy định của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của NH. Các NH phải xây dựng quy chế nội bộ, bao gồm quy định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích; quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro; quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; quy định về quản lý thanh khoản, trong đó có các thủ tục và các giới hạn quản lý thanh khoản; quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ phù hợp với tính chất và quy mô hoạt động của TCTD; quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của TCTD; quy định về phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp…Việc các NHTM vi phạm các quy định nội bộ sẽ dẫn đến những rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành, rủi ro thanh khoản như vừa nêu ở trên. Bên cạnh đó, các NH cũng có thể gặp rủi ro khi vi phạm các quy định khác về an toàn như vi phạm về dự phòng rủi ro, vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong HĐCTD...

Rủi ro trong hoạt động cho vay

Bên cạnh những rủi ro trong HĐCTD nói chung, hoạt động cho vay của các NHTM cũng có những rủi ro cụ thể. Trên thực tế, rủi ro trong hoạt động cho vay là loại rủi ro chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại hậu quả nghiêm trọng nhất cho các TCTD59.

Thứ nhất, NHTM không thu hồi được vốn gốc và lãi do có sự sai sót, nhầm lẫn, cố ý vi phạm, lừa đảo trong hoạt động thẩm định dự án, thẩm định hồ sơ pháp lý, thẩm định tài sản bảo đảm, thẩm định năng lực tài chính của bên vay.

Khi thực hiện hoạt động cho vay, NHTM phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cho vay. Sau đó, NHTM phải tổ chức xét duyệt cho vay theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên khi thực hiện hoạt động này, NHTM có thể phát sinh sự sai sót, nhầm lẫn, thậm chí có sự vi phạm trong việc thẩm định dự án, hồ sơ, thẩm định tài sản bảo đảm cũng như năng lực tài chính của khách hàng. Hệ quả tất yếu của nó là rủi ro không thu hồi gốc và lãi đối với NHTM.


59 Trương Thị Anh Tú (2010), Pháp luật về quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 9.


Ngoài ra, có thể có sự lừa đảo của khách hàng vay khi đề nghị NHTM cho vay thông qua việc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật về mục đích sử dụng vốn, tài sản bảo đảm cũng như năng lực tài chính dẫn đến các NHTM thực hiện giải ngân, sau đó không thu hồi được vốn và lãi.

Thứ hai, rủi ro khi bên vay vi phạm điều khoản mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng hoặc ngân hàng không kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng dẫn đến nguồn vốn đã giải ngân không thu hồi được.

Khi ký kết hợp đồng tín dụng, NHTM và khách hàng thoả thuận về mục đích sử dụng vốn vay. NH phải thẩm định kỹ mục đích sử dụng vốn vay và chỉ ký kết hợp đồng nếu mục đích sử dụng vốn vay là hợp pháp cũng như đáp ứng các tiêu chí khác theo quy định. Tuy nhiên, sau khi các bên đã ký kết hợp đồng tín dụng và NHTM đã giải ngân, nếu khách hàng vay sử dụng tiền vay sai mục đích đã thoả thuận sẽ gây ra rủi ro đối với các NHTM, bởi lẽ trong trường hợp này, khả năng sử dụng vốn vay không hiệu quả, không phù hợp với các quy định của pháp luật là rất cao. Điều này dẫn đến khả năng nguồn vốn đã giải ngân sẽ không thu hồi được – hậu quả của “tâm lý

ỷ lại” trong thị trường tài chính60.

Tiếp đến, NHTM phải thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau khi đã giải ngân cho khách hàng. Thực hiện công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả. Trường hợp NHTM không kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, thì khả năng khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thoả thuận là rất cao, hiệu quả sử dụng vốn vay bị ảnh hưởng, từ đó NH có thể không thu hồi được vốn và lãi cho vay.

Thứ ba, rủi ro do dự án đầu tư, kinh doanh không khả thi hoặc thất bại có nguyên nhân từ chính sách, pháp luật, điều kiện môi trường kinh doanh... dẫn đến NH không thu hồi được vốn và lãi.

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của HĐNH nói chung và HĐCTD nói riêng luôn gắn liền với những điều kiện môi trường kinh doanh, chính sách, pháp luật.... Trong trường hợp những yếu tố này biến đổi theo chiều hướng thuận lợi thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, kéo theo HĐNH sẽ phát triển có hiệu quả hơn. Ngược lại, nếu những yếu tố này biến chuyển theo chiều hướng bất lợi thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí nhiều dự án kinh doanh không hiệu quả, bên vay bị thua lỗ, doanh nghiệp vay vốn NH bị phá sản, từ đó NH không có khả năng thu hồi vốn và lãi.

Thứ tư, bên vay vi phạm nghĩa vụ trả vốn và lãi đúng thời hạn cho NHTM, dẫn đến NH phải thực hiện xử lý rủi ro.



60 Huỳnh Thế Du, “Tại sao tài sản bảo đảm tiền vay là yếu tố quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 2 năm 2005, tr 36.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/05/2023