Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do lựa chọn đề tài

Cấp tín dụng là hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại (NHTM), là một kênh quan trọng đáp ứng các nguồn lực tài chính cho nền kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Về bản chất, cấp tín dụng là hoạt động kinh tế, do vậy nó cũng chịu sự tác động và điều tiết bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh đặc biệt, liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể, chứa đựng sự rủi ro, dễ tác động dây chuyền đến các hoạt động kinh tế khác. Chính vì vậy, bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng (HĐCTD) của các NHTM Việt Nam là nhu cầu rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.

Cho đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và HĐCTD nói riêng đã được quan tâm xây dựng và thực hiện, bởi lẽ một hệ thống tài chính - ngân hàng mạnh, ổn định, có sức “đề kháng” tốt luôn đóng vai trò cốt lõi và quyết định đến sự sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế tại bất kỳ quốc gia nào. Ngược lại, một hệ thống ngân hàng (HTNH) tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương trước các biến động của nền kinh tế xã hội; HĐCTD không hiệu quả, chất lượng tín dụng thấp, nợ xấu cao, năng lực tài chính của các NHTM yếu… là mầm mống cho sự bất ổn của nền kinh tế quốc gia.

Có thể nhận thấy những văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc bảo đảm an toàn trong HĐCTD như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và những văn bản khác có liên quan đã tạo lập hành lang pháp lý cơ bản nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Tuy vậy các quy định của pháp luật còn chưa toàn diện, thống nhất và phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng (HĐNH) trong điều kiện mới. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM còn nhiều hạn chế, vướng mắc như công tác thanh tra giám sát ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an toàn HĐNH, công tác xét xử tại toà án chưa thực sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM, hiện tượng sở hữu chéo, lũng đoạn ngân hàng diễn ra tại một số NHTM đã ảnh hưởng xấu đến an toàn trong HĐCTD.

Cùng với đó, hệ thống lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở Việt Nam còn non yếu, thiếu hệ thống, cơ sở kinh tế và pháp lý chưa thuyết phục, đồng thời thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Do đó việc nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM là nhiệm vụ rất cần thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm


an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

làm luận án tiến sĩ Luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

Luận án “Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam” có mục đích trước hết là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật này, trên cơ sở đó đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM tại Việt Nam.

Để thực hiện được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:

Thứ nhất, phân tích, đánh giá có hệ thống những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, trên cơ sở đó tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đồng thời tiếp tục nghiên cứu phát triển những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM;

Thứ hai, làm sáng tỏ sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua việc phân tích rõ bản chất HĐCTD của các NHTM và những rủi ro của nó; khái niệm, tiêu chí đánh giá và nội dung của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Từ đó, làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, nội dung cũng như yêu cầu của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM;

Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM Việt Nam nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM Việt Nam;

Thứ tư, xác định những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và đề xuất những giải pháp, kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống lý thuyết liên quan đến bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; những quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM là vấn đề có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của luận án, tác giả tập trung nghiên


cứu khía cạnh pháp lý của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Ở góc độ cụ thể, phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm:

Thứ nhất, về không gian, tác giả nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM ở Việt Nam. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đề cập đến kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm an toàn HĐNH, đặc biệt là khuyến nghị của Uỷ ban Basel về an toàn trong HĐCTD;

Thứ hai, về thời gian, tác giả chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật đang có hiệu lực về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM trên cơ sở Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và các văn bản có liên quan.

Thứ ba, về lĩnh vực nghiên cứu, tác giả nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam mà không nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong các hoạt động khác của NHTM (như huy động vốn, thanh toán, tham gia thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán…); Đồng thời, tác giả nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam thông qua hai nội dung: pháp luật về phòng ngừa rủi ro (quy định về những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, giới hạn tín dụng; thẩm định hồ sơ tín dụng và kiểm tra sử dụng vốn; các biện pháp bảo đảm tín dụng; thông tin tín dụng; công tác thanh tra, giám sát của NHNN, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ); pháp luật về xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM (quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ; chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ; mua bán nợ, sử dụng dự phòng rủi ro và một số quy định khác có liên quan).

Thứ tư, tác giả đề tài luận án chỉ nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam mà không nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các tổ chức tín dụng (TCTD) khác như TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về khoa học:

Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; khái niệm, vai trò, nội dung , yêu cầu cũng như phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM sẽ đóng góp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về đảm bảo an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam nói riêng và pháp luật ngân hàng Việt Nam nói chung.


Về thực tiễn:

Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cho các nhà làm luật tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về HTNH ở Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn để các nhà quản lý tham khảo các cách thức tổ chức, quản lý HĐNH, HTNH ở Việt Nam; Đóng góp các ý kiến để các ngân hàng, các chủ thể có liên quan nâng cao hơn nữa vấn đề an toàn trong HĐNH, tăng cường hiệu quả hoạt động của mình.

5. Những điểm mới của luận án

Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài đã nghiên cứu, phân tích và có một số điểm mới cơ bản như sau:

Về lý luận: khác với những công trình nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước, đề tài tiếp cận và phân tích cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại dựa trên cơ cấu và trình tự phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đó là cơ sở quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật, đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Về thực tiễn: đề tài đã làm nổi bật hai vấn đề cơ bản của thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại là: (i) Pháp luật thực định về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại tuy đã có những ưu điểm nhất định, song các quy định đó còn chưa toàn diện, thống nhất và phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. (ii) Trên cơ sở phân tích các vụ án điển hình trong lĩnh vực ngân hàng như vụ án Nguyễn Đức Kiên, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, vụ án tại Công ty thủy sản Phương Nam, vụ án tại Ngân hàng Xây dựng (VNCB)..., đề tài đã làm sáng tỏ việc thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại còn chưa nghiêm: nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ lãnh đạo và nhân viên ngân hàng cũng như khách hàng vay vốn trong việc nâng khống giá trị tài sản bảo đảm tín dụng, không thẩm định hồ sơ tín dụng, thực hiện sai nghĩa vụ kiểm tra sử dụng vốn vay...gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng cho các ngân hàng. Hệ quả tất yếu là hệ thống ngân hàng phải hứng chịu gánh nặng nợ xấu hàng trăm nghìn tỷ đồng... Từ đó cho thấy, thực trạng pháp luật vẫn chưa thực sự bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM.

Về giải pháp: từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên và dựa vào các lý thuyết nghiên cứu chính là lý thuyết về sự can thiệp của Nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội, lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng như cách tiếp cận kinh tế học pháp luật, đề tài đã phân tích định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM


bao gồm: phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; tiếp thu những kinh nghiệm, chuẩn mực và thông lệ quốc tế về bảo đảm an toàn HĐNH. Đặc biệt, định hướng cốt lõi là cần bảo đảm hài hòa hóa lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng; bảo đảm sự phù hợp và bền vững trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; chấm dứt sự lũng đoạn ngân hàng cũng như kiểm soát tốt HĐNH.

Từ đó, đề tài phân tích ba giải pháp chủ yếu là quy định nghĩa vụ của NHTM về bảo đảm an toàn trong HĐCTD; giám sát chặt chẽ trạng thái an toàn trong HĐCTD của NHTM và quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Trên cơ sở đó, đề tài kiến nghị sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành tập trung vào Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng như kiến nghị bảo đảm cơ chế thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 04 chương như sau:

Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu;

Chương 2. Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại;

Chương 3. Thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam;

Chương 4. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM là vấn đề rộng và phức tạp, hiện nay còn có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Với mục đích và trong phạm vi của đề tài luận án, bảo đảm an toàn trong HĐCTD là hoạt động của những chủ thể nhất định nhằm giữ (hay duy trì) được sự an toàn, bảo vệ cho HĐCTD không bị những thiệt hại do các tác nhân bên trong và bên ngoài NH tác động vào, đồng thời duy trì được một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua hai nội dung chủ yếu là phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro. Từ đó trước hết tác giả khảo sát các công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, tiếp đến là khảo sát các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, sau đó khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng tiếp cận ở góc độ phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro.

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại

Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM thu hút sự quan tâm không chỉ của các cơ quan quản lý nhà nước, của các ngân hàng (NH), mà còn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trước hết, một số tác giả cố gắng giải mã thuật ngữ “an toàn” trong HĐNH trong mối liên hệ với an ninh tài chính nói chung.

Cụ thể, tiến sĩ Vũ Đình Ánh, trong bài viết “An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng”1, cho rằng an ninh tài chính là khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh. “An toàn” được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm từ phía các tác động bên trong và bên ngoài.

Cách tiếp cận khác, tiến sĩ Lê Thị Thuỳ Vân trong bài viết “Bảo đảm an toàn tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2012-2013 và thách thức chính sách trong những năm tiếp theo”2 cho rằng “an toàn” được hiểu là việc duy trì được sự ổn định (tiếng Anh: stability) và lành mạnh (tiếng Anh: soundness) trên cơ sở đó sẽ giảm thiểu và hạn chế được rủi ro.

Khác với các quan điểm trên, tác giả Nguyễn Văn Hưng, trong luận án tiến sĩ Kinh tế: “Giải pháp hoàn thiện quy chế bảo đảm an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam”3, rút ra quan niệm về an toàn trong hoạt động cho vay là việc NH thu hồi được đầy đủ và đúng hạn số tiền đã cho vay (cả gốc và lãi). Cùng với đó, an toàn



1 Vũ Đình Ánh, “An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng”, Tạp chí Tài chính tháng 9 năm 2001.

2 Lê Thị Thuỳ Vân, “Bảo đảm an toàn tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2012-2013 và thách thức chính sách trong những năm tiếp theo”, Tạp chí Ngân hàng, số 1,2 tháng 01 năm 2014.

3 Nguyễn Văn Hưng (2003), Giải pháp hoàn thiện quy chế bảo đảm an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, luận án tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.


trong cho vay còn bao hàm cả việc bảo đảm cho sự phát triển ổn định của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Như vậy, hai tác giả Nguyễn Văn Hưng và Lê Thị Thuỳ Vân đều khẳng định khía cạnh quan trọng của an toàn là sự ổn định. Tuy nhiên tác giả Nguyễn Văn Hưng có đề cập trực tiếp đến an toàn trong cho vay thông qua việc NH thu hồi được số tiền gốc và lãi cho vay.

Theo quan điểm của tác giả luận án, “an ninh” và “an toàn” là những thuật ngữ có liên quan mật thiết với nhau, nhiều lúc có thể được sử dụng tương đồng với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau, bởi lẽ cả hai thuật ngữ trên đều chỉ một “trạng thái” của một chủ thể (hay một hoạt động) nhất định mà không bị nguy hiểm từ các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động vào. Tuy nhiên thuật ngữ an ninh (tiếng Anh là security) khác với an toàn (tiếng Anh là safety) ở chỗ nó chỉ những mức độ chống lại hoặc bảo vệ từ các tác nhân nguy hại và được sử dụng khá rộng trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, trong khi đó an toàn lại được hiểu ở góc độ được bảo vệ trước những nguy hiểm trong phạm vi rủi ro có thể chấp nhận được.

Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Hưng đã phân tích rất cụ thể về tiêu chí an toàn trong cho vay thông qua việc NH thu hồi gốc và lãi cho vay. Song đây lại là cách tiếp cận khá hẹp về an toàn, vì nếu NH chỉ thu hồi gốc và lãi số tiền đã cho vay thì đó mới chỉ là mục tiêu phòng tránh được rủi ro tín dụng vốn dĩ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn gốc và lãi cấp tín dụng. Trong khi đó rủi ro trong HĐCTD bao hàm cả rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và các rủi ro khác.

Chính vì vậy, vẫn cần phải có một cách tiếp cận khoa học hơn về an toàn trong HĐCTD của NHTM.

Bên cạnh những công trình nêu trên, một số nhà khoa học nghiên cứu bản chất của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Tác giả Phạm Thanh Chung, trong luận văn thạc sĩ “Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”4, cho rằng: bảo đảm an toàn trong HĐCTD là việc các TCTD thực hiện các biện pháp nhất định theo quy định của pháp luật và yêu cầu của hoạt động tín dụng sao cho bảo đảm cho HĐCTD an toàn và hiệu quả.

Khác với cách tiếp cận nêu trên, trong luận văn thạc sĩ “Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện”5, tác giả Tạ Chương Lâm không nêu định nghĩa về bảo đảm an toàn trong HĐNH, mà tiếp cận bảo đảm an toàn dưới góc độ quản trị rủi ro trong HĐNH.

Một cách tiếp cận khác đáng chú ý về bảo đảm an toàn trong HĐNH là nghiên cứu của tác giả Lê Văn Luyện trong luận án tiến sĩ Kinh tế: “Những giải pháp đảm bảo an


4 Phạm Thanh Chung (2005), Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

5 Tạ Chương Lâm (2009), Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.


toàn cho hoạt động ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế”6. Theo tác giả Lê Văn Luyện, đảm bảo an toàn cho HĐNH trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế là việc đảm bảo các điều kiện cần thiết và trợ giúp cho HTNH nâng cao sức cạnh tranh, duy trì được sự phát triển bền vững, hiệu quả trong quá trình hội nhập quốc tế. Cách tiếp cận này phân tích bảo đảm an toàn trong HĐNH gắn với yêu cầu của quá trình hội nhập NH, thông qua đó nhấn mạnh các yếu tố cạnh tranh, phát triển bền vững và hiệu quả trong HĐNH.

Tác giả Kim Thị Huyền, trong luận văn thạc sĩ Luật học “Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng gắn với quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng,7 cho rằng bảo đảm an toàn trong HĐNH là những quy phạm pháp luật mà Nhà nước đặt ra nhằm quản lý, xác lập và tăng cường sự an toàn, hiệu quả trong các hoạt động huy động vốn, cấp tín dụng, kinh doanh ngoại tệ và cung cấp các dịch vụ thanh toán của các TCTD.

Theo tác giả luận án, nếu coi an toàn trong HĐCTD là trạng thái không bị nguy hiểm từ các tác nhân bên trong và bên ngoài theo một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, thì bảo đảm an toàn trong HĐCTD là hoạt động của những chủ thể nhất định nhằm giữ (hay duy trì) được sự an toàn, bảo vệ cho HĐCTD không bị những thiệt hại do các tác nhân bên trong và bên ngoài NH tác động vào, đồng thời duy trì được một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được.

Một vấn đề được đặt ra là những chủ thể nào có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD? Tác giả Phạm Thanh Chung khẳng định chỉ NHTM là có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Ngược lại, tác giả Nguyễn Văn Hưng (trong luận án mà đã được đề cập ở phần trên) cho rằng trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐNH không chỉ thuộc về từng NH, mà còn là trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng trung ương. Đây là một vấn đề khá quan trọng nên cần được làm sáng tỏ dưới góc độ lý luận. Đồng thời, không thể coi bảo đảm an toàn trong HĐCTD chỉ là việc quản trị rủi ro như tác giả Tạ Chương Lâm phân tích, bởi lẽ quản trị rủi ro là hoạt động cụ thể của NH nhằm nhận diện, đo lường, kiểm soát và hạn chế rủi ro – vốn dĩ hẹp hơn so với khái niệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Không những vậy, vấn đề cạnh tranh, phát triển bền vững và hiệu quả HĐNH luôn gắn liền với an toàn trong HĐCTD của NHTM, song nếu tiếp cận sự an toàn trong HĐCTD dưới các góc độ nêu trên của tác giả Lê Văn Luyện thì sẽ cần được tiếp tục nghiên cứu rõ hơn. Quan điểm về an toàn trong HĐNH của tác giả Kim Thị Huyền cũng cần được làm rõ thêm, vì không thể đồng nhất bảo đảm


6 Lê Văn Luyện (2003), Những giải pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế, luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng.

7 Kim Thị Huyền (2008), Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng gắn với quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/05/2023