Phân Tích Diễn Biến Nguồn Vốn Và Sử Dụng Vốn

lợi nhuận gộp càng lớn và ổn định, thì càng mở ra một cách sáng sủa về giá trị của lợi nhuận ròng. Đối với nghành ngân hàng thì khái niệm Lợi nhuận gộp có thể được gọi là Thu nhập ròng từ lãi(Net interest income) hay NII

-Lãi/lỗ thuần từ hoạt động dịch vụ: Là một khoản mục chi tiết nhằm cho biết kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong các lĩnh vực chủ đạo. Thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ gồm 2 khoản mục nhỏ hơn:

Chi phí hoạt động (Operating expense): Chi phí hoạt động doanh nghiệp bao gồm các chi phí bán hàng, chi phí chính và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí hoạt động là một loại chi phí phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quản lý. Xu hướng của chi phí hoạt động là thường được đánh giá bằng phần trăm của doanh thu luôn được quan tâm kĩ càng nhằm nhận biết các dấu hiệu, cả lạc quan lẫn bi quan, từ đó đánh giá tính hiệu quả của khả năng quản lý doanh nghiệp

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ(Operating income): Nếu trừ đi phần chi phí hoạt động từ lơi nhuận gộp thì phần còn lại chính là thu nhập từ hoạt động dịch vụ. Mô hình này chỉ ra phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động thông thường của doanh nghiệp, chưa bao gồm các chi phí và thu nhập khác như: Chi phí lãi vay, thuế, dự phòng rủi ro tín dụng và những khoản mục đặc biệt khác. Thu nhập từ hoạt động chính của doanh nghiệp là một khoản mục tiện lợi thường được sử dụng để phân tích trước lợi nhuận ròng(Net income) nhằm đánh giá khả năng sinh lời.

-Thu nhập(chi phí) từ hoạt động ngoài hoạt động doanh nghiệp: Là các khoản thu nhập hoặc chi phí của các hoạt động kinh doanh phụ của doanh nghiệp. Có thể kể đến như mua bán chứng khoán đầu tư, bảo hiểm, bất động sản, các dự án nghiên cứu, góp vốn, mua cổ phần

-Chi phí rủi ro tín dụng: Trong một nền kinh tế nhiều những biến động, rủi ro, có thể nói tồn tại rất nhiều sự kiện có khả năng ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Nó có thể được nhận diện như, chi phí tái cơ cấu, các khoản bất thường và sự gián đoạn trong kinh doanh. Các nhà đầu tư cần đưa tách những khoản mục này khỏi lợi nhuận bởi chúng có thể làm sai lệch sự đánh giá.

-Lợi nhuận trước thuế: Một khoản mục luôn cần được xem xét kĩ càng bởi nó là “kim chỉ nam” của khả năng sinh lời doanh nghiệp. Trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, việc xem xét kĩ càng lợi nhuận trước thuế là một bước quan trọng trong việc phân tích bảng báo cáo kết quả kinh doanh. Có rất nhiều kĩ thuật phù hợp cho doanh nghiệp nhằm tránh hoặc tối thiểu hóa các khoản


14

thuế, từ đó tác động đến thu nhập của họ. Do những kĩ thuật này không thuộc hoạt động chính của doanh nghiệp. Các nhà phân tích nên chọn cách sử dụng lợi nhuận trước thuế như một công cụ hỗ trợ chính xác nhằm đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp


Bước tiếp theo đó là thực hiện việc tính toán các tỉ số về chi phí hoạt động, đây là các chỉ số thường được dùng để xác định xem khả năng quản lý các chi phí hoạt động của doanh nghiệp thế nào. Tỉ số về chi phí hoạt động là một công cụ so sánh hữu hiệu. Do đó việc sử dụng các dữ kiện qua từng năm và đánh giá xu hướng của chỉ số chi phí hoạt động là một kĩ thuật cần thiết nhằm tăng tính khách quan cho bài phân tích.


Hệ số chi phí hoạt động được tính theo công thức sau




Hệ số chi phí hoạt động =

Tổng chi phí hoạt

động


x 100(%)

Doanh thu thuần

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.

Phân tích tình hình tài chính ngân hàng công thương vietinbank chi nhánh hai bà trưng- Hà Nội - 3

Tỉ số càng nhỏ, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp càng tốt. Xu hướng thường được mong chờ đó là khi tỉ số này giảm theo thời gian, và không mong muốn thì ngược lại

Tính toán hệ số thu nhập trên đầu tư(Return on investment) hay ROI, đây là một hệ số nhằm đánh giá năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả đến đâu.Hệ số thu nhập trên đầu tư được tính toán như sau :



ROI =

Tổng thu nhập hoạt động + Tổng chi phí

hoạt động

Tổng chi phí hoạt động

Trong đó trung bình tổng tài sản có thể được tính bằng cách cộng tổng tài sản đầu kì với tổng tài sản vào thời điểm cuối kì, sau đó chia đôi nhằm tìm ra giá trị trung bình. Hệ số thu nhập trên tài sản cũng là một thước đo hiệu quả khi so sánh qua từng năm để nhận biết các xu thế.

1.4.3. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Là một bảng tổng kết thường niên nhằm xác định các khoản tiền ra và vào của doanh nghiệp trong một kì kế toán

Bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ trả lời 2 câu hỏi

- Các khoản tiền đến từ đâu?


15

- Các khoản tiền lưu chuyển đâu?

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin về số lượng, thời gian và các khoản tiền vào và ra có thể dự đoán được. Những dữ liệu mà báo cáo thể hiện thường được sử dụng làm nền tảng cho quá trình dự thảo ngân sách hay xây dựng các kế hoạch hoạt động cho doanh nghiệp

Cách trình bày một bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường được chia thành 3

phần

- Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ( doanh số bán hàng, cung cấp dịch vụ..)

- Hoạt động đầu tư doanh nghiệp ( đầu tư mua bán tài sản, trang thiết bị, dụng cụ..)

- Hoạt động tài chính doanh nghiệp (phát hành cổ phiều,trái phiếu..)

Cùng với nhau, những thành phần này thể hiện một cách tổng hợp sự thay đổi ròng của dòng tiền mà doanh nghiệp quản lý trong một giai đoạn mà báo cáo tài chính cung cấp.

Những nhà cho vay hay nhà đầu tư tiềm năng sẽ tiếp cận kĩ càng hơn kết quả lưu chuyển tiền tệ ở khu vực hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Khu vực này thể hiện thu nhập ròng sau thuế cộng với khấu hao giảm dần và, bởi vậy, năng lực của doanh nghiệp chính là khả năng quản lý nợ và trả cổ tức cho các cổ đông.

Cùng với bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạo thành 3 công cụ không thể thiếu trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp

Các bước phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ doanh nghiệp:

Một kiểu phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ được gọi là “phân tích dựa trên dự thảo ngân sách”. Đó là một phần của kế hoạch dự báo tài chính doanh nghiệp. Xác định rõ số lượng tiền chảy vào doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Đó có thể là bao gồm cả doanh số bán hàng, kinh doanh và cung cấp dịch vụ bằng tiền mặt lẫn chuyển khoản. Những đối tượng kể trên còn được gọi tổng quát là dòng tiền vào (Cfin)

Bước thứ hai ta cần xác định lượng tiền chảy ra khỏi doanh nghiệp trong khoảng thời gian đó. Doanh nghiệp sẽ thường có những khoản chi tiêu, sẽ thường phải tham gia vào hoạt động mua thiết bị, công cụ, dụng cụ. Một số chi phí có thể bao gồm chi phí quảng cáo, xăng xe đi lại, văn phòng phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải chịu một chi phí định kì nữa, cụ thể là hàng quý, đó là chi phí thuế. Một chi phí nữa


16

không xuất hiện thường xuyên đó là chi phí mua sắm thiết bị vi tính, phương tiện và một vài chi phí lớn khác. Những đối tượng kể trên còn được gọi là dòng tiền ra (Cfout)

Mục đích của doanh nghiệp thường là muốn dòng tiền tại bước 1 cao hơn dòng tiền tại bước 2. Điều đó có nghĩa là dòng tiền vào cần lớn hơn dòng tiền ra, và như thế, doanh nghiệp mới có đủ tài chính để duy trì hoạt dộng của mình. Dưới góc độ của nhà phân tích, phần so sánh 2 đại lượng và đưa ra những đánh giá về hoạt động doanh nghiệp.

So sánh sự chênh lệch giữa 2 đại lượng này qua các năm. Đối với các năm tiếp theo, vẫn sử dụng phương pháp này. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể là một thước đo tốt nhằm đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và lợi nhuận thực tế mà doanh nghiệp có thể đạt được qua các năm.

Với đối tượng là những bảng báo cáo luân chuyển tiền tệ với quy mô lớn, ta cần chia chúng thành 3 thành phần riêng biệt: (I) Lưu chuyển từ HĐKD; (II) Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư và (III) Lưu chuyển từ hoạt động tài chính nhằm dễ dàng hơn trong việc so sánh giá trị của các giá trị dòng tiền vào (Cfin) và các giá trị dòng tiền ra (Cfout)

1.4.4. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn

Một thành phần thể hiện sự thay đổi trong vị thế tài chính của doanh nghiệp, đó chính là sự tăng của các quỹ trong một kì kế toán. Quỹ hay thường được định nghĩa như vốn lưu động hay tiền mặt.

Nguồn vốn lưu động bao gồm: vốn lưu động phục vụ cho hoạt động doanh nghiệp, sự giảm sút của tài sản dài hạn, sự gia tăng của các khoản nợ dài hạn, và sự gia tăng vốn cổ đông. Nếu nguồn vốn được định nghĩa là nguồn tiền không chỉ bao gồm vốn lưu động, thì nó có thể được tạo thành từ 2 nguồn khác, đó là: sự giảm của các tài sản ngắn hạn không phải là tiền mặt, và sự gia tăng của các khoản nợ ngắn hạn

Việc phân tích tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn trong công ty là một vấn đề cốt yếu nhằm hiểu được “sức khỏe” tài chính của doanh nghiệp. Những nhà đầu tư cần phải biết doanh nghiệp tạo ra và sử dụng nguồn vốn như thế nào và khi nào thì nguồn vốn đó được giải ngân hết. Có thể nói báo cáo lưu chuyển tiền tệ có tác dụng giúp đánh giá nguồn vốn và cách sử dụng vốn trong hoạt động tài chính và đầu tư. Nhưng để phân tích một cách cặn kẽ hơn thì một phương pháp trình bày khác là cần thiết nhằm tăng tính trực quan.

Các bước phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn


17

Bước đầu tiên của quá trình này là rút gọn bảng cân đối kế toán, xác định sự thay đổi của nguồn vốn và sử dụng vốn trong một thời kì nhất định giữa hai thời điểm lập bảng kế toán, xác định những khoản mục chi tiết, không đưa vào những khoản mục tổng hợp dẫn tới chồng chéo và phức tạp.

Bước tiếp theo đó là rút và lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn: Đây là một công cụ riêng biệt nhằm xác định một cách rõ ràng các thành phần cơ bản đó là nguồn vốn và sử dụng vốn, sắp xếp các thành phần của bảng cân đối kế toán theo chiều từ trên xuống. Trình bày giá trị của các khoản mục trong các khoản thời gian “đầu kì” và “cuối kì”, tiền hành so sánh sự chênh lệch giữa các thành phần này. Mỗi sự thay đổi này được phản ảnh vào 2 cột “nguồn vốn” và “sử dụng vốn” theo nguyên tắc sau

- Nếu tăng tài sản hoặc giảm nguồn vốn thì ghi vào sử dụng vốn

- Nếu giảm tài sản hoặc tăng nguồn vốn thì ghi vào nguồn vốn

Bước thứ 3 của quy trình đó là lập bảng phân tích: Sắp xếp các khoản liên quan đến việc sử dụng vốn và liên quan đến việc thay đổi nguồn vốn dưới hình thức một bảng cân đối.

Bảng 1.2. Bảng tài trợ tổng quát


Diễn giải

31/12/N

31/12/N+1

Tạo vốn

Sử dụng vốn

A T I SẢN





I. TSNH





1. Tiền





2. …





II. TSCĐ





1. Nguyên giá TSCĐ





B. NGUỒN VỐN





I. Nợ ngắn hạn





II. Nợ dài hạn





III.VCSH





Tổng





(Nguồn: Giáo trình phân tích BCTC – PGS.TS Nguyễn Năng Phúc)

Bước cuối cùng là nhận xét và đưa ra những đánh giá về khả năng tạo vốn và sử dụng vốn doanh nghiệp



18


1.4.5. Phân tích các chỉ tiêu ngân hàng


1.4.5.1. Phân tích các dữ liệu ngân hàng

Tỉ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu(ROE): Là tỉ số lượng hóa của thu nhập thường niên được quy thành phần trăm của vốn cổ đông. ROE thể hiện khả năng sinh lời của doanh nghiệp bằng cách cho thấy lợi nhuận doanh nghiệp làm ra tương ứng với số tiền mà các cổ đông đã đầu tư vào

ROE được xác định bằng phần trăm và được tính bằng công thức:


ROE =

Thu nhập ròng

x 100(%)

Vốn cổ đông

ROE là một công cụ hữu dụng nhằm so sánh khả năng sinh lời công ty với doanh nghiệp khác cùng nghành.

Nhà đầu tư cũng có thể tính toán sự thay đổi của ROE trong từng giai đoạn nhất định bằng cách lưu ý tới vốn cổ đông ở giai đoạn đầu kì trước và sử dụng nó như một mẫu số nhằm xác định giá trị ROE đầu kì. Và cũng sau đó, sử dụng vốn cổ đông cuối kì nhằm xác định giá trị ROE cuối kì. Sự tính toán cả hai giá trị đầu kì và cuối kì của ROE cho phép các nhà đầu tư xác định được sự thay đổi trong khả năng sinh lời trong kì

Tỉ lệ chi trả trên quỹ(RPF): RPF là khái niệm viết tắt của Rate Paid on Fund, đây là một hệ số xác định chi phí vốn mà doanh nghiệp phải chịu chiếm bao nhiêu phần trăm lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra từ các tài sản sử dụng dòng vốn tương ứng. Đây là một công cụ tốt nhằm đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt là vào hoạt động đầu tư vào tài sản.

RPF được xác định bằng công thức sau:



RPF =

Chi phí lãi và các

chi phí tương tự


x 100(%)

Tài sản tạo thu

nhập

Trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động, Chi phí vốn luôn là một yếu tố cần xem xét nhằm duy trì tính hiệu quả trong hoạt động doanh nghiệp. Và có thể nói yếu tố chính giải quyết vấn đề chi phí vốn chính là lợi nhuận thu được từ những thành quả của quá trình đầu tư


19

1.4.5.2. Phân tích các hệ số rủi ro


Tỉ lệ thu nhập lãi thuần(NIM): Nim hay còn gọi là Net interest Margin là một thước đo khá chính xác nhằm xác định tính hiệu quả của hoạt động đầu tư doanh nghiệp nếu so với những khoản nợ của nó. Một giá trị không như ý của chỉ số này biểu thị việc đầu tư không hiệu quả của doanh nghiệp, bởi vì chi phí vốn đã vượt quá khả năng sinh lời thu được từ những tài sản được đầu tư


NIM được tính bằng công thức sau




NIM =

Thu nhập lãi

thuần


x 100(%)

Tài sản tạo thu

nhập


Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng phải có các khoản tài sản để đưa vào hoạt động kinh doanh và tạo ra lợi nhuận. Để đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng, người ta phân loại tài sản thành các dạng: Tài sản Có sinh lãi (như các khoản cho vay, khoản đầu tư tài chính…), Tài sản Nợ (Huy động khách hàng, Vay từ các ngân hàng khác…) và tài sản thông thường (ví dụ như tài sản cố định là văn phòng, máy móc thiết bị…).


Tỷ lệ NIM cao là một dấu hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và nợ. Ngược lại, NIM thấp sẽ cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong việc tạo lợi nhuận


Tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ(NPL): Còn gọi là Non-Performing loan ratio, là một chỉ tiêu nhằm xác định giá trị của nợ xấu khi đem so sánh nó với tổng dư nợ, cho biết chất lượng và tính rủi ro của các khoản nợ, đồng thời xác định tỉ trọng của nợ xấu trong tổng nợ phải trả

Công thức tính NPL được xác định bằng phần trăm:


NPL =

Tổng nợ xấu

x 100(%)

Tổng dư nợ


Nếu tỷ lệ này cao so với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay. Và Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất

20

lượng các khoản tín dụng được cải thiện. Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ xấu hay thay đổi các phân loại nợ.


Dự phòng rủi ro tín dụng: Còn gọi là Provision for Loan losses, là một khoản chi phí dược dành riêng cho việc giải quyết các khoản nợ xấu(những khoản nợ của khách hàng thông thường, hoặc các khoản nợ đã được thỏa thuận để tăng thời hạn…)


“Nợ xấu về bản chất là khái niệm dùng để chỉ các khoản nợ cho vay khách hàng đang đối diện với rủi ro cao trong việc thu hồi nợ gốc và lãi vay do khách hàng gặp khó khăn. “10


Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể


Dự phòng chung (General provision): được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra, nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể.Dự phòng chung được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trừ tiền gửi và cho vay liên ngân hàng, theo quy định hiện hành của nhà nước

Dự phòng cụ thể (Specific provision): được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể.

Xác định tỉ lệ dự trữ so với tổng nợ bằng công thức sau:



Dự trữ rủi ro trên tổng nợ =

Dự phòng rủi ro

tín dụng


x 100(%)

Tổng dư nợ

Hệ số này càng cao thì số tiền dự phòng rủi ro tín dụng càng lớn.Do đó, nó cũng có thể làm giảm lợi nhuận ròng và lợi tức từ mỗi cổ phiếu

Chỉ số tổng dư nợ trên tổng tiền gửi: Được gọi là Loan-to-Deposit Ratio, thường được sử dụng để xác định khả năng thanh khoản của ngân hàng bằng cách chia tổng các khoản nợ cho vay cho tổng lượng tiền gửi huy động. Nếu chỉ số này cao, có nghĩa là ngân hàng không có đủ tính thanh quản để giải quyết các tình huống khẩn cấp. Mặt khác, nếu chỉ số này thấp, ngân hàng lại không có khả năng kiếm được số lợi nhuận tối đa, do có sự biến động giảm ở các khoản cho vay, hoặc có sự biến động tăng ở các khoản huy động.


10 nguồn: http://bfinance.vn/

21

Chỉ số nợ cho vay trên tiền gửi được tính bằng công thức sau:



Chỉ số nợ cho vay trên tiền gửi =

Tổng dư nợ


x 100(%)

Tổng tiền gửi huy

động

Chỉ số tổng nợ trên tổng t i sản: Hay còn được gọi là Total debt to total assets Ratio, là một công cụ hiệu quả nhằm chỉ ra mối liên hệ giữa tổng các khoản nợ và tài sản. Đây là một công cụ so sánh hữu hiệu được sử dụng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau. Chỉ số này càng cao, tác dụng đòn bẩy tài chính càng cao, và do đó, rủi ro tài chính cũng tiềm tàng lớn hơn. Đây là một chỉ số toàn diện bao gồm cả các khoản nợ dài hạn và ngắn hạn(doanh nghiệp đi vay có kì hạn dưới 1 năm), tương tự với tài sản - hữu hình lẫn vô hình.

“Đòn bẩy tài chính là một khái niệm chỉ sự gia tăng rất nhỏ của doanh thu có thể dẫn tới sự gia tăng rất lớn về lợi nhuận, và đó chính là sự giải thích thích đáng cho hoạt động vay mượn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có chỉ tiêu đòn bẩy tài chính cao có thể đứng trước rủi ro phá sản nếu họ không có khả năng tri chả cho các khoản nợ của mình, và có thể không tìm được những chủ nợ trong tương lai. Tuy vậy, đòn bẩy tài chính không phải lúc nào cũng xấu, nó có thể giúp gia tăng sự đầu tư của các cổ đông và thường được miễn giảm thuế do hoạt động cho vay.” 11


Chỉ số tổng nợ trên tổng tài sản =

Tổng nợ

x 100(%)

Tổng tài sản

1.4.5.3. Phân tích các chỉ tiêu về vốn

Tỉ số vốn cổ đông: Còn được gọi là Shareholder Equity Ratio, là một chỉ số giúp xác định số lượng lợi tức mà cổ đông nhận được trong giai đoạn doanh nghiệp thực hiện hoạt động thanh toán. Tỉ số này được hiển thị dưới dạng phần trăm, được tính toán bằng cách chia tổng vốn cổ đông cho tổng tài sản của doanh nghiệp, và nó cho biết số lượng tài sản mà mỗi cổ đông có thể nắm giữ



Tỉ số vốn cổ đông =

Tổng vốn cổ

đông


x 100(%)

Tổng tài sản

Tỉ số vốn cổ đông là một thước đo quan trọng nhằm đánh giá giá trị mà cổ đông nhận được so với tổng tài sản. Có thể lấy một ví dụ như, nếu ngân hàng có tỉ số vốn cổ đông là 50% và tổng tài sản là 1000 triệu đồng. Điều đó có nghĩa là, trong giai


11 Nguồn: http://www.investorwords.com

22


đoạn thanh toán, tất cả các cổ đông có thể nhận được số lợi tức bằng 500 triệu đồng (50%*1000). Giá trị tỉ số càng cao, cổ đông càng nhận được nhiều cổ tức và ngược lại Hệ số tổng vốn(CAR-Total Capital Ratio): Là một hệ số giàu ý nghĩa thể

hiện vị thế của dòng vốn ngân hàng và được biểu thị là tỉ lệ giữa tổng vốn và tài sản


Hệ số này xác định năng lực tài chính của ngân hàng kể cả trong những điều kiện bất lợi nhất như phải thanh toán các khoản nợ đến hạn, đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tiền mặt, rủi ro hoạt động. Hệ số CAR dưới mức tối thiếu cho phép có thể chỉ ra rằng ngân hàng hiện đang không đủ khả năng cung cấp vốn nhằm mở rộng hoạt động của mình. Có thể nói, CAR là một công cụ để chắc chắn rằng ngân hàng sẽ không mở rộng hoạt động kinh doanh của mình nếu thiếu lượng vốn phù hợp.

CAR có thể được tính như sau:



Hệ số tổng vốn =

Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2


x 100(%)

Tổng tài sản điều

chỉnh rủi ro

Trong đó ta cần đề cập đến 3 thành phần chính đó là “Vốn cấp 1”,”Vốn cấp 2” và “Tổng tài sản điều chỉnh rủi ro”

-Vốn cấp 1: Vốn cấp 1 chính là một thước đo giàu ý nghĩa đối với năng lực tài chính của ngân hàng từ quan điểm của những nhà lãnh đạo. Có thể nói như vậy vì vốn cấp 1 bao gồm các nguồn lực tài chính có độ tin cậy cao nhất và có tính thanh khoản tốt nhất, những thành phần có thể kể đến như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, lợi nhuận giữ lại…

“Vốn cấp 1 về cơ bản gồm (i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận không chia và (iii) các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển.”12

-Vốn cấp 2:Tương tự như vốn cấp 1 nhưng tính “chắc chắn” của các thành phần trong vốn cấp 2 thấp hơn vốn cấp 1. Vốn cấp 2 bao gồm các khoản mục như đánh giá lại tài sản, các khoản nợ thứ cấp, các công cụ vốn có tính lưỡng thể như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu có quyền chọn, dự phòng rủi ro bao gồm cả nghĩa vụ thuế chưa thực hiện, tổng nợ xấu…


12 (Nguồn: Quyết Định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống Đốc NHNN)


23

-Tổng tài sản điều chỉnh rủi ro: Tài sản điều chỉnh rủi ro là tổng tất cả các tài sản do ngân hàng nắm giữ được tính toán theo trọng số đối với rủi ro tín dụng theo một công thức do cơ quan quản lý (thường là Ngân Hàng Trung Ương) đưa ra. Hầu hết các ngân hàng Trung ương đều theo chuẩn BIS - Ngân hàng thanh toán quốc tế - để đặt ra những trọng số này. Các tài sản như tiền mặt, tiền xu thường có trọng số rủi ro là 0, trong khi các khoản vay không có bảo đảm có trọng số 100%.

Ta có thể tính toán tổng tài sản điều chỉnh rủi ro bằng công thức sau


Tổng tài sản điều chỉnh rủi ro =

Tổng tài sản – Tiền mặt và giá trị tương đương – Tài sản cố định

Hoặc



Tổng tài sản điều chỉnh rủi ro =

Các tài sản sinh lời khác không bao gồm nợ cho vay + Nợ cho vay ròng

Các tài sản sinh lời khác bao gồm ngân khố và các hóa đơn, sự bảo trợ của

chính phủ, tiền gửi, tiền kí quỹ, tiền đặt cọc dùng cho hoạt động ngân hàng, giao dịch, tài chính và các công cụ bảo hộ khác như chứng khoán, các khoản vốn đầu tư, một số tài sản hữu hình khác và các tài sản vô hình như phần mềm, bằng sáng chế…

Nợ cho vay ròng là các khoản nợ từ các tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng khác, các cá nhân, hợp đồng cho thuê, các tài sản thế chấp, các khoản cho vay từ các nhóm công ty và tổ chức, các tài khoản cho vay đáng tin cậy khác

Tài sản cố định bao gồm đất đai, nhà cửa và các tài sản hữu hình khác như phân xưởng, nội thất, máy móc và các công cụ….

1.4.6. Phân tích ROA và ROE theo phương pháp Dupont

Phân tích Dupont là phương pháp tính toán ROE bằng cách chia nhỏ nó ra thành các thành phần riêng biệt. Phương pháp phân tích Dupont thường được sử dụng theo 2 mục đích

- Đảm nhận vai trò so sánh, phân tích từng doanh nghiệp riêng lẻ, từ đó xác định rõ lý do của con số ROE và mối liên hệ của nó với chất lượng khoản thu nhập.

- Đối với nghành ngân hàng nói riêng, Phân tích Dupont nhằm thể hiện xu hướng ROE từ quá trình phân tích và cũng cho thấy hoạt động của các ngân hàng ảnh hưởng đến nhau như thế nào và vì sao. Phân tích Dupont cũng là một


24

công cụ hữu hiệu nhằm tính toán sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính lên các ngân hàng.

Nhắc lại một chút về khái niệm ROE(Return on equity), ROE là một thước đo khả năng quản lý của doanh nghiệp trong việc triển khai dòng vốn đông nhằm tạo ra lợi nhuận cho những người nắm giữ vốn cổ phần. Tuy nhiên ROE chưa thực sự là một công cụ chính xác và giàu ý nghĩa trong việc phân tích tài chính. Có thể lấy ví dụ về 2 ngân hàng với cùng lượng tài sản và có thể tạo ra cùng một lượng lợi nhuận từ những tài sản đó, khi đó chỉ cần một ngân hàng với số vốn cổ đông nhỏ hơn là có thể hình thành một chỉ số ROE cao hơn so với ngân hàng còn lại. Và ta sẽ không thể khẳng định ngân hàng có chỉ số ROE cao sẽ tốt hơn ngân hàng kia bởi khả năng sinh lời là như nhau. Tuy vậy ROE đóng góp một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện phương pháp phân tích Dupont với vai trò là một vế khai triển.

ROE có thể được khai triển như sau:


ROA phản ảnh tính hiệu quả của khả năng quản trị doanh nghiệp qua những tài 1


ROA phản ảnh tính hiệu quả của khả năng quản trị doanh nghiệp qua những tài sản của doanh nghiệp và không chịu những tác động bởi những thành phần khác. Đây là một công cụ cơ bản và tương đối chính xác nhằm mục đích so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau. Trong khi đó hệ số của tổng tài sản trên tổng vốn cổ đông còn được gọi là số nhân vốn cổ đông(Equity Multiplier). Khi doanh nghiệp làm ra lợi nhuận, thì một số nhân vốn cổ đông lớn sẽ nhân với thu nhập và vì thế tạo nên sự gia tăng của ROE. Tuy nhiên, cùng với đó là khi doanh nghiệp bị lỗ, số nhân vốn cổ đông sẽ là nhân tố chính làm doanh nghiệp có khả năng phá sản. Một số tài liệu gọi số nhân vốn cổ đông là đòn bẩy tài chính(Financial Leverage)

Có thể nói, số nhân vốn cổ đông hoàn toàn là một thành phần đáng quan tâm, nhất là trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính. Để đề phòng những rủi ro từ số nhân vốn cổ đông, cần loại bỏ những tài sản thứ cấp không an toàn, sử dụng những tài khoản điều chỉnh rủi ro nhằm tăng tính thanh khoản.

Việc phân tách ROA thành những thành phần riêng biệt nhằm giúp chúng ta có những cái nhìn đa chiều về các yếu tố ảnh hưởng đến ROA (và sau đó là ROE). Thành


25

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/04/2022