loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người
quan tâm.
- Thời hạn bảo hiểm nhân thọ thường rất dài, quan hệ giữa các bên trong mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ lại rất đa dạng và phức tạp:
Thời hạn trong BHNT thường kéo dài từ 5 năm trở lên. Mỗi sản phẩm BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng lại có sự khác nhau về STBH, phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia... Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản HĐBH phi nhân thọ, trong mỗi HĐBH nhân thọ có thể có 4 người có liên quan: Người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Người bảo hiểm chính là các công ty BHNT, còn người được bảo hiểm là người mà tính mạng, tình trạng sức khỏe và những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của họ được bảo hiểm hoặc là người giao tên tuổi của mình cho người khác đi ký HĐBH. Còn người tham gia BHNT thực chất là những người trực tiếp đứng ra ký kết hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm phải có đầy đủ năng lực pháp lý và hành vi. Trong mỗi hợp đồng BHNT còn có người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Thông thường người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia chỉ định. Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm là người sẽ nhận được mọi quyền lợi từ người bảo hiểm chi trả.
- Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp:
Theo tác giả Jean - Claude Harrari "sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng" [13]. Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm, như: Chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng. v.v... Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT, một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người được bảo hiểm;
+ Tuổi thọ bình quân của con người;
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay - 1
- Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Thị Trường Bảo Hiểm Nhân Thọ
- Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Bảo Hiểm Nhân Thọ Một
- Các Hợp Đồng Bhnt Có Hiệu Lực Ở Mỹ, Giai Đoạn 1900-1993 [10]
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
+ Số tiền bảo hiểm;
+ Thời hạn tham gia;
+ Phương thức thanh toán;
+ Lãi suất đầu tư;
+ Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền...
Điều đó khác với việc định giá cả một chiếc ô tô. Chiếc ô tô là sản phẩm của một dây chuyền sản xuất, để sản xuất ra nó, người ta phải chi ra rất nhiều khoản chi, như: Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu; chi phí lao động sống; khấu hao tài sản cố định v.v... Những khoản chi này là những chi phí thực tế phát sinh và thực chất chúng là những khoản chi phí "đầu vào" được hạch toán một cách chi tiết, đầy đủ và chính xác để phục vụ cho quá trình định giá. Thế nhưng, khi định giá phí BHNT, một số yếu tố nêu trên phải giả định, như: Tỷ lệ chết, tỷ lệ hủy bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát v.v... Vì thế, quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung.
- Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế
- xã hội nhất định:
ở các nước có nền kinh tế phát triển, BHNT đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa triển khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát triển.
Những điều kiện về kinh tế, như:
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP);
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân;
+ Mức thu nhập của dân cư;
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền;
+ Tỷ giá hối đoái...
Những điều kiện xã hội bao gồm:
+ Điều kiện về dân số;
+ Tuổi thọ bình quân của người dân;
+ Trình độ học vấn;
+ Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. Thông thường ở các nước, luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản, quy định có tính pháp quy phải ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát triển. Luật bảo hiểm và các văn bản có liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề, như: Tài chính, đầu tư , hợp đồng, thuế v.v... Đây là những vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt động kinh doanh BHNT. Chẳng hạn, ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, Đức v.v... Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp BHNT bằng các chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là nhằm tạo ra cho các cá nhân cơ hội để tiết kiệm, tự mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp từ Nhà nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong nền kinh tế. Cũng vì những mục đích trên, mà một số nước châu á như: ấn Độ, Hồng Kông, Singapore... không đánh thuế doanh thu đối với các nghiệp vụ BHNT. Sự ưu đãi này là đòn bẩy tích cực để BHNT phát triển.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và phát triển nhất. Doanh thu phí BHNT toàn cầu năm 1993 đạt 943 tỷ USD, năm 1999 là 1.412, 2 tỷ USD nhưng đến hết năm 2002 con số này đã là 1.536 tỷ USD.
Sở dĩ BHNT phát triển rất nhanh và doanh thu phí bảo hiểm ngày càng
tăng là vì loại hình bảo hiểm này có vai trò rất lớn.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
1.1.3.1. Đối với các cá nhân và gia đình
Bảo hiểm nhân thọ đã khắc phục được hậu quả rủi ro khi người được bảo hiểm không may bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong nhằm ổn định cuộc sống gia đình và người thân. Đồng thời BHNT còn thỏa mãn được các nhu cầu như: tiết kiệm, tích lũy khi người tham gia bảo hiểm còn sống để hỗ trợ những người sống phụ thuộc có điều kiện để học tập, mua sắm, khởi nghiệp kinh doanh…Ngoài ra BHNT trợ cấp định kỳ còn giúp những người về hưu hay những người cao tuổi giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái, người thân trong gia đình và phúc lợi xã hội.
1.1.3.2. Đối với nền kinh tế quốc dân
Bảo hiểm nhân thọ là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu để đầu tư góp phần vào việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tính chất kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, các công ty BHNT không chỉ thực hiện chức năng bảo hiểm cho những rủi ro, mà họ còn huy động được lượng tiền nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội và các tổ chức để hình thành quỹ bảo hiểm. Do thời hạn của các hợp đồng BHNT rất dài, nên nguồn quỹ bảo hiểm ngày càng được tồn tích lại rất lớn. Khi chưa sử dụng đến để chi trả tiền bảo hiểm thì quỹ BHNT là một trong những nguồn vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế. Bên cạnh vai trò cung cấp vốn để đầu tư, BHNT còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Ngoài những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp BHNT, đội ngũ đại lý, môi giới BHNT cũng ngày càng đông và thực sự đã góp phần giảm tỷ lệ lao động bị thất nghiệp ở rất nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu thống kê năm 2003, ở Mỹ đã có tới 1,97 triệu lao động, ở Pháp là 0,62 triệu lao động làm việc cho các công ty BHNT. ở Việt Nam, tính đến thời điểm ngày 31/12/2005 đã có gần 100.000 người làm đại lý cho các công ty BHNT.
1.1.3.3. Đối với các tổ chức kinh tế - xã hội
Bảo hiểm nhân thọ còn thỏa mãn được những nhu cầu cần thiết của họ trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Những nhu cầu của các tổ chức kinh tế
- xã hội ở đây là: Tạo ra sự tự chủ về mặt tài chính, khi những người giữ các cương vị quan trọng của họ bị tử vong. Một doanh nghiệp có thể mua BHNT cho những người này với số tiền bảo hiểm tương đương với chi phí mà họ phải bỏ ra để đào tạo hoặc thuê mướn. Không chỉ có thế các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội với biện pháp này họ còn giữ chân và khuyến khích người lao động, đặc biệt là những người chủ chốt làm việc hết mình, gắn bó với doanh nghiệp. Bởi lẽ thông qua các hợp đồng BHNT theo nhóm, doanh nghiệp có thể tạo ra sự đảm bảo cho người lao động và những người sống phụ
thuộc một cuộc sống ổn định khi gặp phải rủi ro. Cung cấp các khoản tiền hưu trí khi hết tuổi lao động hoặc các khoản phúc lợi bổ sung ngoài bảo hiểm xã hội.
1.1.4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản
Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai... Do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm BHNT, thực chất là đa dạng hóa các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thỏa mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có 3 loại hình BHNT cơ bản:
1.1.4.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm:
- Bảo hiểm tử kỳ (còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh
mạng có thời hạn):
Loại hình bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó, cũng có nghĩa là người bảo hiểm không phải thanh toán STBH cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Đặc điểm:
+ Thời hạn bảo hiểm xác định;
+ Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời;
+ Mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm.
Mục đích:
+ Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất.
+ Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn.
+ Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời (Bảo hiểm trường sinh):
Loại hình bảo hiểm này cam kết chi trả cho người thụ hưởng bảo hiểm một STBH đã được ấn định trong hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: "Bảo hiểm đến khi chết". Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi.
- Đặc điểm:
+ STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết;
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định;
+ Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay
đổi trong suốt quá trình bảo hiểm;
+ Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả;
BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ chi trả STBH.
Mục đích:
+ Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất;
+ Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình;
+ Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau.
1.1.4.2. Bảo hiểm trong trường hợp còn sống (còn gọi là bảo hiểm
sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong
suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Đặc điểm:
+ Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định
hoặc cho đến khi chết;
+ Phí bảo hiểm đóng một lần;
+ Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.
Mục đích:
+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu;
+ Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi
già;
+ Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Như vậy, với một khoản phí bảo hiểm phải nộp khi ký hợp đồng mà
người tham gia lựa chọn, người bảo hiểm sẽ thanh toán một khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng cho người được bảo hiểm. Nếu khoản trợ cấp này thanh toán định kỳ cho đến hết đời, người ta gọi là "bảo hiểm niên kim nhân thọ trọn đời". Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định người ta gọi là "Bảo hiểm niên kim nhân thọ tạm thời".
Các khoản trợ cấp định kỳ chỉ bắt đầu được thanh toán vào một ngày ấn định và chỉ được trả khi người được bảo hiểm còn sống. Tuy nhiên, có một số công ty bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung để hoàn phí bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị tử vong, thế nhưng trường hợp này rất ít thấy. Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên gọi "Bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí", "Bảo hiểm tiền hưu"; "Niên kim nhân thọ" v.v... được các công ty bảo hiểm vận dụng linh hoạt.