Những vấn đề pháp lý về hợp đồng nhập khẩu than: nhìn từ thực tiễn hoạt động nhập khẩu than tại Tổng công ty Phát điện 1 EVNGENCO1 - 4


(Điều 117), theo đó để một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (hay hợp đồng nhập khẩu hàng hóa) có hiệu lực thì nó phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

Điều kiện về chủ thể


Các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế (Điểm a Điều 117 BLDS 2015).

Theo Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó mất. Để bảo đảm mọi cá nhân có quyền tự do giao kết hợp đồng, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch; Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác” (Điều 673 BLDS 2015). Đối với pháp nhân, theo Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự là khả năng pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự được hình thành kể từ khi pháp nhân đó được thành lập (thường là thời điểm đăng ký kinh doanh) và chấm dứt khi pháp nhân đó chấm dứt hoạt động.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo Điều 19, BLDS 2015). Thông thường, một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi đủ mười tám tuổi trở lên, trừ trường hợp có vấn đề về nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 20, Bộ luật Dân sự 2015). Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân, tuy nhiên, có thể hiểu rằng năng lực hành vi dân sự của pháp nhân được thể hiện thông qua hành vi của người đại diện và nó sẽ phát sinh, chấm dứt cùng với thời điểm phát sinh, chấm dứt năng lực pháp luật của pháp nhân. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần đặc biệt lưu ý xem người ký kết hợp đồng có phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hay không. Theo Điều 85 Bộ luật Dân sự thì đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại


diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp trước pháp luật, là người đại diện cho pháp nhân để ký kết hợp đồng. Đại diện theo uỷ quyền là người được người có thẩm quyền uỷ quyền để thực hiện giao dịch ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, người được uỷ quyền chỉ được thực hiện các công việc trong phạm vi được uỷ quyền và người uỷ quyền vẫn phải chịu trách nhiệm cho công việc mà người được uỷ quyền thực hiện.

Pháp luật của mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về tư cách chủ thể. Điều này dựa trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia, chủ thể tham gia hợp đồng trước hết phải tuân thủ pháp luật của nước mình về tư cách chủ thể. Vì vậy, muốn xác định một chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự để tham gia vào giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế hay không thì cần phải tìm hiểu xem pháp luật của quốc gia mà chủ thể đó mang quốc tịch quy định như thế nào về vấn đề này nhằm đảm bảo hợp đồng không bị vô hiệu. Đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, nhiều người cho rằng tư cách chủ thể của Bên Bán được xác định theo pháp luật của nước xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, đây là cách xác định không chính xác, chẳng hạn nước xuất khẩu hàng hoá là Indonesia nhưng Bên Bán lại có trụ sở tại Singapore thì khi đó pháp luật của Singapore mới là căn cứ để xác định tư cách chủ thể của Bên Bán, không phải pháp luật của Indonesia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, việc tìm hiểu hệ thống pháp luật của nước ngoài là không hề dễ dàng nên có không ít các doanh nghiệp Việt Nam đã bỏ qua vấn đề này, dẫn đến rủi ro hợp đồng bị vô hiệu.

Điều kiện về sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng

Những vấn đề pháp lý về hợp đồng nhập khẩu than: nhìn từ thực tiễn hoạt động nhập khẩu than tại Tổng công ty Phát điện 1 EVNGENCO1 - 4


Điều kiện tiếp theo để hợp đồng nhập khẩu hàng hóa có hiệu lực là các bên phải tham gia hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện (Điểm b Điều 117 BLDS 2015). Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam (theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015). Hợp đồng sẽ vô hiệu nếu được ký kết trên cơ sở bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc bị nhầm lẫn (theo quy định tại các Điều 126, 127 BLDS 2015) vì trong những trường hợp này các bên không đạt được mục đích và mong muốn giao kết hợp đồng ban đầu.


Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng


Điểm c Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”.

Do đó, các nội dung trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào thoả thuận của hai bên, miễn là nó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Nếu vi phạm thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015. Trường hợp một phần nội dung của hợp đồng bị vô hiệu thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu từng phần (Điều 130 BLDS 2015).

Điều kiện về hình thức hợp đồng


Theo Khoản 2 Điều 117 BLDS 2015: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Như đã phân tích tại phần đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Việt Nam cũng đã bảo lưu nội dung này trong CISG nên quy định về hình thức theo Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại phải được đảm bảo.

1.2.3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng


Không giống như cá nhân có thể tự mình tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp nhân lại không thể tự mình thực hiện việc này mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Do vậy, một vấn đề quan trọng cần phải xác định là liệu người ký hợp đồng có thẩm quyền để ký kết hợp đồng đó hay không. Theo pháp luật Việt Nam, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng là người đại diện theo pháp luật (người có tên trên giấy đăng ký kinh doanh ở Việt Nam) hoặc người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền để ký kết hợp đồng thông qua giấy ủy quyền, hoặc cũng có thể người có thẩm quyền được quy định trong Điều lệ của pháp nhân. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia có thể quy định khác nhau về uỷ quyền. Do vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu kỹ luật pháp của nước đối tác quy định như thế nào về thẩm quyền và ủy quyền, hoặc yêu cầu đối tác cung cấp tài liệu để chứng minh mình có thẩm


quyền ký kết hợp đồng. Một số doanh nghiệp nước ngoài còn quy định chữ ký của một người phải đi kèm với chữ ký của một hoặc một số người khác nữa thì mới đủ hiệu lực, vì vậy cần đặc biệt lưu ý trường hợp này để yêu cầu đối tác cung cấp đầy đủ các tài liệu pháp lý liên quan như điều lệ, giấy uỷ quyền, quy định phân cấp,… của công ty để xác định đúng thẩm quyền của người ký kết hợp đồng.

1.2.4. Điều kiện giao hàng


Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng. Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005 tại Điều 34, 35, bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng, giao chứng từ theo thỏa thuận hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Bên bán phải đảm bảo: i) Giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận, ii) Giao hàng đúng thời hạn, iii) Hàng hóa được giao phù hợp với hợp đồng, iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa. Trường hợp các bên không có thoả thuận cụ thể thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của pháp luật.

i) Giao hàng đúng địa điểm:


Khi giao hàng, bên bán phải đảm bảo giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận trong hợp đồng. Một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp hợp đồng nhập khẩu hàng hoá không quy định địa điểm giao hàng thì việc giao hàng sẽ diễn ra ở đâu? Thông thường, các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng các điều kiện giao hàng theo Incoterms, chủ yếu là điều kiện CIF và FOB. Khi đó, nếu không có địa điểm giao hàng cụ thể trong hợp đồng thì theo quy định của CISG (Điều 31) và Luật Thương mại 2005 (Điều 35), người bán sẽ được xem là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng nếu đã hoàn thành giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên.

Vì vậy, khi soạn thảo hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, cần đặc biệt lưu ý phải quy định rõ địa điểm giao hàng đi kèm với các điều kiện giao hàng (ví dụ CIF [Cảng Hải Phòng]) để tránh những thiệt hại phát sinh không đáng có để lấy được hàng về.

ii) Giao hàng đúng thời hạn:


Thời hạn giao hàng được quy định cụ thể tại Điều 37 Luật Thương mại 2005, tương tự với quy định tại Điều 33 CISG. Theo đó, bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định thời điểm giao hàng cụ thể mà chỉ quy định thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó. Nếu không có quy định về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, thế nào được coi là một thời hạn hợp lý là một vấn đề đang còn nhiều tranh cãi. “Hợp lý” ở đây có thể hiểu là khoảng thời gian cần thiết để bố trí việc vận chuyển hoặc thời gian để người bán chuẩn bị nguyên vật liệu hoặc sản xuất ra hàng hóa... Do đó, sẽ hết sức rủi ro cho bên nhập khẩu hàng hóa nếu như hợp đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng, vì khi đó việc giao hàng sẽ gần như phụ thuộc hoàn toàn vào bên xuất khẩu.

iii) Hàng hóa được giao phù hợp với hợp đồng:

Bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng, nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng thì bên bán bị vi phạm nghĩa vụ. Vậy thế nào là hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và trách nhiệm của bên bán đối với hàng hóa không phù hợp như thế nào?

Trước tiên cần làm rõ thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng. Không có quy định cụ thể về việc thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng, tuy nhiên, căn cứ Khoản 1 Điều 35 CISG và Khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại 2005 thì có thể hiểu rằng hàng hóa phù hợp với hợp đồng là hàng hóa được giao đúng số lượng, chất lượng, mô tả và đúng bao bì hay đóng gói như quy định trong hợp đồng. Ngược lại, các trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng lại được quy định rõ trong CISG (Điều 35.2) và Luật Thương mại 2005 (khoản 1, Điều 39).

Khi bên bán giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng theo khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, trên thực tế việc từ chối nhận hàng không xảy ra thường xuyên mà thay vào đó bên mua sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa vì bên mua thường ở trong tình thế cần than nên đôi khi họ vẫn chấp nhận than kém chất lượng nhưng được giảm giá.

iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa:


Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 Luật Thương mại 2005 và Điều 34 CISG, theo đó, bên bán có nghĩa vụ phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa theo đúng thời hạn, địa điểm và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng. Các loại chứng từ cụ thể phải giao liên quan đến hàng hóa sẽ được các bên quy định cụ thể trong hợp đồng tại các điều khoản như thanh toán, giao hàng,… Các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng các điều kiện giao hàng theo Incoterms nên việc xác định các loại chứng từ cơ bản mà người bán phải giao cho người mua là tương đối đơn giản. Một số chứng từ phổ biến có thể kể đến như vận đơn, hoá đơn thương mại, chứng từ bảo hiểm, giấy chứng nhận chất lượng, nguồn gốc xuất xứ,…

1.2.5. Điều khoản chất lượng


Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản phức tạp, dễ dẫn đến phát sinh tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng. Nếu hợp đồng không quy định rõ ràng các tiêu chuẩn chất lượng và phương pháp đánh giá chất lượng của hàng hóa thì việc xác định chất lượng của hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không là không hề đơn giản. Vì vậy, trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cần đặc biệt lưu ý quy định một cách cụ thể, chi tiết nhất có thể về chất lượng hàng hoá nhập khẩu. Có nhiều cách để xác định phẩm chất của hàng hóa như đưa ra các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật (ví dụ mua sắm máy móc thiết bị), hoặc quy định hàm lượng chất chủ yếu trong hàng hóa (chẳng hạn như mua các sản phẩm nông sản, các loại quặng), hoặc cũng có thể dựa vào hàng mẫu (ví dụ: mua sắm đồng phục cơ quan theo mẫu),…Trong nhiều trường hợp, để đảm bảo chất lượng hàng hoá, các bên thường yêu cầu cấp giấy chứng nhận chất lượng do các đơn vị giám định độc lập/ các tổ chức giám định chất lượng uy tín ban hành.

Một câu hỏi đặt ra là khi hàng hoá được giao không đáp ứng yêu cầu về chất lượng như quy định trong hợp đồng thì sẽ xử lý như thế nào? Trường hợp bên bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng. Ngoài ra, bên mua vẫn có thể nhận hàng nhưng sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa theo quy định tại Điều 50 CISG. Tuy nhiên, người mua phải tuân thủ quy định của Điều


39 hoặc Điều 43 CISG liên quan đến việc thông báo về sự không phù hợp của hàng hóa. Mặc dù biện pháp giảm giá không được quy định tại Luật Thương mại Việt Nam 2005 nhưng biện pháp này lại được Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 công nhận tại Điều 445 (Khoản 1). Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định cụ thể về quyền và các điều kiện đi kèm với quyền áp dụng biện pháp giảm giá của bên mua.

1.2.6. Điều khoản thanh toán


i) Giá cả, đồng tiền thanh toán


Điều khoản về giá là điều khoản đặc biệt quan trọng trong hợp đồng. Thông thường, đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, giá hợp đồng được xác định dựa trên điều kiện giao hàng. Ví dụ, hợp đồng nhập khẩu theo điều kiện CIF thì giá hợp đồng sẽ bao gồm toàn bộ chi phí tiền hàng, cước vận chuyển và phí bảo hiểm để đưa hàng đến cảng đến quy định trong hợp đồng. Điều khoản về giá cần quy định chi tiết cấu thành giá như đơn giá hàng hóa, đơn giá vận chuyển, bảo hiểm,… và phải nêu rõ khối lượng để xác định tổng giá. Trường hợp các bên không có thoả thuận về giá thì giá của hàng hóa sẽ được xác định theo Điều 52 Luật thương mại 2005 và Điều 55 CISG.

Đặc biệt, trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần lưu ý đồng tiền thanh toán và tỷ giá vì đây là những yếu tố có tác động rất lớn đến lợi nhuận kinh doanh. Điển hình cho các vấn đề rủi ro về tỷ giá là trường hợp của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội Viettel. Năm 2016, dự án đầu tư tại Mozambique và Haiti của Tập đoàn có lợi nhuận nhưng do biến động tỷ giá nên Tập đoàn này phải trích lập dự phòng chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện, gây ra lỗ kế toán. Như vậy, việc xác định giá bằng đồng tiền “mạnh” hay đồng tiền “yếu” có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thì việc quy định đồng tiền có xu hướng mất giá sẽ có lợi hơn.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc quy định đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán cần phải tuân thủ quy định của Pháp lệnh Ngoại hối 2013 và Thông tư 32/2013/TT- NHNH. Các trường hợp được phép sử dụng ngoại hối theo quy định của Ngân hàng Nhà nước được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư 32/2013/TT-NHNH. Do đó, các doanh nghiệp cần tham chiếu đến Thông tư này để xác định mình có thuộc trường hợp được sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hay không.


ii) Thời hạn thanh toán:

Thời hạn thanh toán được quy định tại Điều 55 Luật thương mại 2005. Theo đó, người mua phải thanh toán cho người bán ngay khi người bán giao hàng hoặc giao chứng từ, người mua được kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán theo quy định tại Điều 44 Luật Thương mại 2005. Quy định này cũng tương tự như quy định của CISG (Điều 58).

Tuy nhiên, trong giao dịch thương mại quốc tế, các bên thường thoả thuận thời hạn thanh toán tiền hàng theo một trong các cách: trả trước, trả ngay, trả sau hoặc kết hợp các cách trên. Việc áp dụng thời hạn thanh toán theo cách nào phụ thuộc vào vị thế của các bên trong hợp đồng, chẳng hạn, khi hàng hóa có giá trị lớn hoặc có tính chất đặc biệt quan trọng đối với người mua thì người bán thường yêu cầu người mua trả trước tiền hàng. Để tránh bị chiếm dụng vốn trong thời gian mà bên bán chưa giao hàng thì bên mua nên đàm phán tỷ lệ trả trước càng thấp càng tốt.

iii) Phương thức thanh toán:


Có một số phương thức thanh toán trong các hợp đồng ngoại thương như thanh toán bằng điện chuyển tiền (T/T), thanh toán nhờ thu, thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)… Trong đó, phương thức thanh toán phổ biến nhất trong các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá là thanh toán bằng thư tín dụng (L/C).

iv) Áp dụng chỉ số giá thanh toán:


Một số hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có áp dụng chỉ số giá thanh toán quốc tế, đặc biệt là các hợp đồng nhập khẩu nhiên liệu. Việc áp dụng chỉ số giá thanh toán tại thời điểm nào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả tài chính của giao dịch mua bán. Thông thường, trong các hợp đồng nhập khẩu nhiên liệu, giá hợp đồng không phải giá cố định mà là giá biến đổi, cụ thể, các bên thường áp dụng chỉ số giá nhiên liệu trong công thức tính toán giá thanh toán để phản ánh giá thị trường. Các chỉ số này liên tục biến động theo thị trường nên các doanh nghiệp nhập khẩu cần phải hết sức cẩn trọng và nhạy bén khi quyết định thời điểm áp dụng chỉ số giá tại thời điểm để đảm bảo mua hàng với chi phí thấp nhất.

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 26/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí