nghiệp có mức tiền gửi lớn: ưu đãi phí, rút ngắn thời gian thực hiện các giao dịch, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán và chi trả tiền mặt của khách hàng.
Đối với khu vực dân cư
Đây là nguồn vốn mang tính ổn định và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên tổng nguồn vốn huy động được của Ngân hàng Quân Đội. Vì vậy Ngân hàng cần áp dụng các hình thức huy động vốn khác nhau để tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả của kênh huy động vốn này.
- Chính sách lãi suất tiền gửi hợp lý: nghĩa là một chính sách vừa đảm bảo khối lượng vốn huy động vừa đảm bảo mức chi phí huy động vốn không quá cao. Tuy nhiên tăng lãi suất tiền gửi hợp lý và linh hoạt trong từng thời kỳ để thu hút vốn không phải là một vấn đề đơn giản vì đây là chi phí đầu vào cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nếu chi phí quá cao thì lợi nhuận sẽ giảm. Vì vậy Ngân hàng Quân Đội cần căn cứ vào nhu cầu về vốn trong từng thời kỳ mà đưa ra mức lãi suất huy động cho phù hợp, tránh tình trạng ứ đọng vốn trong Ngân hàng; đồng thời phải luôn theo dõi tình hình lãi suất của các ngân hàng thương mại khác để điều chỉnh lãi suất cạnh tranh với mặt bằng lãi suất trên thị trường.
- Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt: Ngân hàng Quân Đội cần mở rộng các hình thức tài khoản cá nhân, mạnh dạn đưa vào áp dụng các hình thức thanh toán như séc, Visa Card, Master Card…. Mặc dù trước mắt có thể chưa tạo được nguồn thu nhập nhưng nó có ý nghĩa mở rộng dịch vụ Ngân hàng vừa đẩy mạnh việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân cư vào quỹ Ngân hàng.
- Phát hành trái phiếu ngân hàng để tăng huy động vốn trung và dài hạn: Với đặc tính có thể chuyển nhượng được, trái phiếu là một công cụ huy động vốn rất linh hoạt. Người nắm giữ trái phiếu khi cần thu hồi vốn có thể dễ dàng bán trái phiếu trên thị trường hay mang trái phiếu đến cầm cố vay vốn
tại Ngân hàng. Ngoài ra việc phát hành trái phiếu tạo điều kiện cho Ngân hàng đẩy mạnh hoạt động chứng khoán.
Đối với các tổ chức tài chính tín dụng: Ngân hàng Quân Đội cần tìm kiếm các đối tác để cho vay vốn, đồng tài trợ các dự án lớn để phân tán rủi ro và giải quyết các dự án lớn, đó là: các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh và các công ty bảo hiểm...
Đối với các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài, tuy Ngân hàng Quân Đội còn gặp nhiều khó khăn trong việc đặt quan hệ về huy động vốn do lãi suất cao và thủ tục phức tạp, nhưng ngay từ bây giờ, việc tìm hiểu các đối tác tiềm năng và các thủ tục pháp lý cần thiết là rất quan trọng. Với sự chuẩn bị đầy đủ, trong tương lai, Ngân hàng Quân Đội sẽ triển khai thành công hoạt động kinh doanh đối ngoại, thu hút được nhiều ngoại tệ từ các nguồn tài trợ, ủy thác đầu tư từ các Chính phủ, các tổ chức tín dụng quốc tế... qua đó có thể tăng cường các hoạt động đồng tài trợ, cho vay hợp vốn, tiếp nhận ủy thác, đầu tư tài chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu; đồng thời có thể trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm quản lý điều hành, mở rộng các hình thức đào tạo cán bộ làm công tác tín dụng xuất nhập khẩu.
Đầu tư phát triển dịch vụ kiều hối
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
- Điều Tra Trình Độ Cán Bộ Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Và Thanh Toán Quốc Tế Tại Các Chi Nhánh Ngân Hàng Quân Đội Năm 2007
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 15
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 16
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Hiện nay lượng kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm rất lớn, lên đến hàng tỷ USD, nhưng do chưa được quan tâm đúng mức nên lượng tiền thu hút vào Ngân hàng Quân Đội còn rất hạn chế. Đây là nguồn huy động ngoại tệ vừa dồi dào vừa ít tốn kém chi phí. Do vậy Ngân hàng Quân Đội cần đầu tư phát triển dịch vụ kiều hối bằng cách:
- Tăng cường quảng cáo, hướng dẫn khách hàng có nhu cầu nhận tiền ở trong nước lựa chọn hình thức chuyển tiền phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài. Ngân hàng Quân Đội có thể xúc tiến xây dựng mạng lưới các Ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài để khách hàng lựa chọn.
- Đảm bảo tổ chức thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, phí dịch vụ hợp lý dể khách hàng có thể bán cho Ngân hàng số ngoại tệ mà họ có được, tránh việc người dân sau khi nhận kiều hối lại mang ra thị trường tự do bán. Ngân hàng có thể xem xét việc ấn định tỷ giá mua ngoại tệ kiều hối cao hơn tỷ giá chính thức mà Ngân hàng công bố.
3. Xây dựng và hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
3.1. Nâng cao chất lượng thẩm định và đánh giá phương án kinh doanh xuất nhập khẩu
Nâng cao chất lượng thẩm định và đánh giá các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu là một yêu cầu luôn được đặt ra trong công tác thẩm định để Ngân hàng có thể chủ động từ chối những dự án kém hiệu quả và mở rộng cho vay các dự án có hiệu quả.
Trong công tác cho vay, 3 khâu tác nghiệp quan trọng mà nhân viên Ngân hàng cần thực hiện, đó là: kiểm soát trước, kiểm soát trong, kiểm soát sau khi cho vay. Trong đó, kiểm soát trước khi cho vay (thẩm định khách hàng và đánh giá phương án kinh doanh) là yêu cầu quan trọng nhất và nó quyết định đến chất lượng của khoản vay cũng như việc đảm bảo tín dụng của Ngân hàng.
Trong công tác kiểm soát trước khi cho vay, cán bộ tín dụng Ngân hàng cần nghiên cứu chi tiết 6 khía cạnh của người vay (6C):
- Một là tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người vay xin vay vốn với mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn. Vì vậy cán bộ tín dụng buộc phải nắm vững được mục đích xin vay của khách hàng, thái độ trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, trung thực và sự nỗ lực hoàn trả nợ khi đến hạn. Nếu có bất kỳ sự giả dối nào trong kế hoạch sử dụng vốn và trả nợ như đã thỏa thuận, Ngân hàng sẽ từ chối cho vay.
- Thứ hai là năng lực của người vay (Capacity): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đi vay có đủ năng lực hành vi và pháp lý khi ký kết hợp đồng tín dụng. Trường hợp là công ty vay vốn thì người đứng ra ký kết hợp đồng là người đại diện của công ty (ghi rõ trong điều lệ của công ty) hoặc người được ủy quyền phải đúng theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba là thu nhập tiền mặt của người vay (Cash): Tiêu chí này tập trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra tiền để trả nợ? Nhìn chung người vay có 3 khả năng tạo ra tiền: luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập; tiền bán từ thanh lý tài sản; tiền bán từ phát hành chứng khoán. Tuy nhiên cán bộ tín dụng cần xem xét ưu tiên khả năng thu hồi nợ từ nguồn thu thứ nhất, đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản trả nợ Ngân hàng. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng phải đánh giá luồng tiền của khách hàng thông qua: thu nhập hay doanh thu có mức tăng trưởng cao trong quá khứ hay không?, liệu mức tăng trưởng cao này có duy trì để đảm bảo trả nợ đầy đủ các gốc lẫn lãi cho Ngân hàng hay không?
- Thứ tư là vật đảm bảo tiền vay (Collateral): Cán bộ tín dụng cần nhìn trước hết vào những nguồn lợi nhuận kinh doanh có thể có của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính của công ty cần bao hàm tất cả các khoản phải trả, cả thực tế lẫn đột xuất. Đồng thời, khoản tiền cho vay cần được đảm bảo bởi giá trị tài sản có chât lượng của công ty với các yếu tố như: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng của tài sản này.
Tình hình thực tế đảm bảo tiền vay tại Ngân hàng Quân Đội cho thấy Ngân hàng nên áp dụng một số biện pháp cụ thể sau:
+ Thực hiện phương án có tài sản đảm bảo trên mọi khoản vay, kể cả việc đảm bảo bằng các tài sản hình thành từ vốn vay, các quyền đòi nợ...
+ Chỉ nhận cầm cố, thế chấp tài sản có tính khả mại cao.
+ Mặc dù không có quy định về tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo nhưng Ngân hàng nên áp dụng nhất quán thực hiện mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo.
+ Các hợp đồng thế chấp và cầm cố nên được thực hiện đầy đủ ở các phòng công chứng Nhà nước để đảm bảo đầy đủ tính pháp lý và tiến hành đầy đủ việc đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Thứ năm là các điều kiện ảnh hưởng (Conditions): Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng phải luôn thận trọng, tính đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra; trong đó xác định và giải thích rõ những điều kiện kinh tế, tình hình, xu hướng của ngành ngân hàng và khả năng cạnh tranh dự kiến sẽ có tác động (cả tích cực lẫn tiêu cực) đến hoạt động của Ngân hàng cũng như doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Thứ sáu là kiểm soát (Control): Đối với các khoản vay lớn đặc biệt là tín dụng theo dự án xuất nhập khẩu, số vốn vay lên đến hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng thì lúc đó tiêu thức Control là vô cùng cần thiết. Những khoản vay cần được kiểm tra một cách hết sức tỷ mỉ và sát sao: kiểm tra các hoá đơn đầu ra, đầu vào, tình hình sử dụng vốn, tiến độ dự án có đảm bảo ko ?,... Việc kiểm tra này phải diễn ra đều đặn và liên tục theo định kì. Ngân hàng có thể cử người tham gia vào ban điều hành hoặc kiểm soát của doanh nghiệp vay vốn, tuy không trực tiếp điều hành nhưng những người này luôn có mặt trong các cuộc họp quan trọng của doanh nghiệp, có vấn đề gì phát sinh sẽ báo lại với tổ chức tín dụng, sau đó sẽ có những góp ý hay những điều chỉnh cần thiết. Bên cạnh đó Ngân hàng cần ban hành và thực hiện nghiêm túc quy chế kiểm tra kiểm soát các hoạt động cho vay xuất nhập khẩu; đồng thời quan tâm đến kỹ thuật và nội dung của các phương thức thanh toán bởi nó hàm chứa nhiều rủi ro nếu yếu kém về nghiệp vụ và kiến thức luật. Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra kiểm soát phải có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức chuyên môn về kinh doanh đối ngoại, tín dụng xuất nhập khẩu và luật quốc tế.
Một yếu tố quan trọng nữa trong công tác thẩm định tín dụng xuất nhập khẩu là thông tin về khách hàng và dự án xuất nhập khẩu và các bên tham gia thương vụ xuất nhập khẩu phải được thu thập và xử lý một cách tổng hợp đa chiều. Các nguồn tin rất đa dạng có thể lấy từ Bộ Thương mại, các Ngân hàng đại lý hay các cơ quan chuyên môn về thẩm định tài chính dự án... Bên cạnh đó Ngân hàng Quân Đội nên thành lập một “Trung tâm phòng ngừa rủi ro” chịu trách nhiệm thu thập, phân tích và xử lý thông tin về tình hình tài chính, uy tín của các khách hàng có quan hệ với Ngân hàng; có thể coi đây là một “thư viện sống” để tra cứu những thông tin quan trọng về các bên tham gia vào quá trình tài trợ của Ngân hàng.
3.2. Bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu
Khi tài trợ ngoại thương, đặc biệt là cho vay để xuất khẩu, Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm trong quá trình vận chuyển và giao nhận hàng hoá. Chính phủ các nước khi thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu thường trợ giúp cho việc tài trợ ngoại thương bằng cách cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu. Qua đó một phần hoặc toàn bộ giá trị khoản tài trợ ngân hàng được Chính phủ hoàn trả nếu xảy ra rủi ro tổn thất trong khuôn khổ được bảo hiểm. Vì vậy Ngân hàng có thể có các chính sách ưu đãi về thủ tục cũng như lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp để khuyến khích hoạt động mua bảo hiểm của họ. Điều này mang lại lợi ích cho cả đôi bên Ngân hàng và doanh nghiệp.
3.3. Các phương pháp phòng ngừa rủi ro khác
Phân loại nợ và tính lập dự phòng rủi ro:
Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, Ngân hàng phải tổ chức thống kê, phân tích, phân loại nợ quá hạn một cách đầy đủ, chính xác. Việc làm này phải được thể chế hóa trong chế độ báo cáo, trở thành một nghiệp vụ thường xuyên hàng tháng, quý, năm của Ngân hàng.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quy định số 493 về việc trích lập dự phòng rủi ro rất cụ thể cho từng loại nợ, Ngân hàng Quân Đội cần căn cứ vào quy định này để yêu cầu các chi nhánh thực hiện theo đúng quy định.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng trong nội bộ cần phải được thực hiện thường xuyên và kịp thời, trở thành một trong những hoạt động cơ bản của công tác quản trị điều hành. Ngân hàng Quân Đội cần tiếp tục tăng cường và hoàn thiện công tác này theo hướng:
- Phòng kiểm soát liên tục giám sát việc cân đối vốn sao cho kết thúc ngày làm việc, Ngân hàng luôn phải duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ tối thiểu 1:1 giữa tài sản “có” có thể thanh toán ngay so với loại tài sản “nợ” phải thanh toán ngay.
- Kiểm tra tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% giữa vốn có so với tài sản “có”, kể cả cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
- Nhanh chóng thành lập phòng thẩm định tín dụng giúp lãnh đạo Ngân hàng với nhiệm vụ tái thẩm định lại các dự án, các phương án vượt mức phán quyết tại các chi nhánh.
- Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát chứng từ, kiểm tra chéo trước khi giải ngân cho khách hàng vay vốn.
Nâng cao hiệu quả quản trị ngân quỹ ngoại hối
Nhiều nghiệp vụ tài trợ ngoại thương được thanh toán bằng ngoại tệ và do vậy rủi ro về hối đoái sẽ tăng lên đối với cả Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng cần quản lý rủi ro này bằng cách đề ra các hạn mức về trạng thái ngoại hối hoặc sử dụng các công cụ hạn chế rủi ro như: Nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, Swap, Option... Có thể nói quản trị ngân quỹ ngoại hối tốt chính là tạo hậu phương vững chắc chống đỡ những rủi ro hối đoái của Ngân hàng trong tài trợ ngoại thương.
Xếp hạng tín dụng quốc gia có quan hệ ngoại thương
Đây là biện pháp thường được các ngân hàng quốc tế áp dụng, qua đó xác định được mức độ rủi ro kinh tế, chính trị, xã hội... của mỗi quốc gia và hạn mức tín dụng tối đa khi tài trợ giao dịch có liên quan đến quốc gia đó. Đối với các ngân hàng vừa và nhỏ, đặc biệt là ngân hàng ở các nước đang phát triển như Việt Nam, việc xếp hạng tín dụng quốc gia có quan hệ ngoại thương mật thiết với khách hàng bản xứ cũng là một biện pháp hết sức cần thiết trong nỗ lực hạn chế rủi ro tài trợ ngoại thương của ngân hàng. Vì vậy Ngân hàng Quân Đội có thể kết hợp với các ngân hàng thương mại khác trong nước, Châu Á và thế giới sắp xếp và phân loại tín dụng của một số quốc gia có quan hệ ngoại thương nhiều với Việt Nam.
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ ngân hàng phục vụ cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
4.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến an toàn tín dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của Ngân hàng. Vì vậy Ngân hàng Quân Đội cần phải có các chính sách hợp lý nhằm thu hút, đào tạo cán bộ thực hiện công tác tín dụng xuất nhập khẩu . Các chính sách này bao gồm các hoạt động sau:
Tiêu chuẩn hóa cán bộ làm công tác tín dụng
Những cán bộ được chọn làm nghiệp vụ phải là những người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao, trung thực, có trách nhiệm và tâm huyết với Ngân hàng.
Cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu phải có năng lực chuyên môn vững vàng, được đào tạo bồi dưỡng chu đáo về kiến thức chuyên môn, am hiểu thị trường, pháp luật trong nước và quốc tế, chuyên môn hóa trong thẩm định từng ngành, nghề và từng đối tượng khách hàng.