Kiến Nghị Giải Pháp Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Khủng Hoảng Tới Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu


b. Kiến nghị một số biện pháp cụ thể.

- Thứ nhất, cần tiếp tục kiên trì những định hướng chính sách lớn đã đề ra trong năm 2008, cụ thể là bình ổn kinh tế vĩ mô, củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng và giải quyết tốt các vấn đề trong nước, như nhập siêu, thâm hụt ngân sách…để tăng cường sức đề kháng cho nền kinh tế.

Tiếp tục thực hiện những chính sách chặt chẽ về chi tiêu Chính phủ và đầu tư của khu vực công nhằm tránh nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và chuyển các khoản đầu tư công sang cho các khu vực tư nhân giúp các doanh nghiệp có thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Lựa chọn đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng lớn, quan trọng mà các trong các thời điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.

Nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là của các Tập đoàn và các Tổng công ty nhà nước, cần hướng vào các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường. Tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ cũng là hướng đi quan trọng nhằm tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao, có giá trị gia tăng lớn hơn.

- Thứ hai, tiếp tục nêu cao cảnh giác, không chủ quan trong việc giám sát, nắm tình hình diễn biến, chủ động chuẩn bị sẵn các phương án, chính sách, biện pháp và khả năng để hỗ trợ nền kinh tế, đề phòng những cú sốc bất ngờ có thể xảy ra. Các cơ quan hữu quan cần thông tin chính xác và kịp thời về diễn biến của thị trường tài chính trong nước và quốc tế, đảm bảo công tác truyền thông phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân, giới đầu tư – kinh doanh.

Cần tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thông tin , dự báo tình hình trong nước và thế giới, để có chủ trường và chính sách đúng và điều hành đúng.

- Thứ ba, thực hiện có hiệu quả các biện pháp trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính. Các ngân hàng cần chú trọng hơn quản trị nội bộ, quản trị thanh khoản, giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng vào các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao ( bất động sản, chứng khoán và tiêu dùng). Cần có gói giải pháp đồng bộ cho từng bộ phận của thị trường tài chính, trong đó đặc biệt lưu tâm đến thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Củng cố niềm tin của các nhà đầu tư vào hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam bằng cách tạo sự rõ ràng và nhất quán về chính sách và thực hiện chính sách.

Sử dụng có hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

diễn biến của thị trường như : tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng…Hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại , bảo đảm các khoản nợ này ở mức an toàn.

Đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm lành mạnh hóa hệ thống này, tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tăng cường giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán, rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân hàng. Xây dựng hệ thống cảnh bảo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới tới hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam - 12

- Thứ tư, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu để tránh bớt tác động của việc sụt giảm nhập khẩu từ Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, và tăng cường các thị trường mới, thị trường lớn trong khu vực ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng như Trung Quốc, Ấn Độ…, chuyển hướng tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các chính sách để khuyến khích phát triển hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu.

Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng XK. Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước nhất là các khâu thu mua nguyên liệu nông sản, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ.

Cùng với việc mở rộng các thị trường XK mới, các doanh nghiệp cần chú ý chiếm lĩnh thị trường nội địa. Những năm đổi mới đã đem lại mức sống được cải thiện cho các tầng lớp người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, không phải cứ có tiền là người tiêu dùng được đáp ứng những sản phẩm phù hợp. Cũng không phải là tự nhiên mà người tiêu dùng vẫn còn tâm lý sính hàng ngoại. Đây là điểm yếu của hàng hóa Việt Nam phục vụ thị trường nội địa và cũng là cơ hội phát triển lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nếu biết đánh giá đúng tình hình.

Thứ năm, hạn chế tình trạng mất việc làm, đồng thời hỗ trợ cho người thất nghiệp bằng các chính sách trợ cấp thất nghiệp, đào tạo và đào tạo lại để một mặt giúp họ vượt qua khó khăn trước mắt, mặt khác giúp họ tăng cường kỹ năng và khả năng chuyển đổi việc làm khi có cơ hội mới. Bên cạnh đó, hỗ trợ các hộ nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Nên cân nhắc chính sách hoãn hay miễn học phí cho con em nông dân trong một thời gian. Cũng có thể hỗ trợ nông dân bằng cách tiến


hành bảo dưỡng, cải tạo hệ thống thủy lợi hay tiếp tục chính sách đảm bảo đầu ra cho chính sách nông nghiệp.

- Thứ sáu, khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Tình trạng độc quyền đang diễn ra khá phổ biến trong nền kinh tế Việt Nam. Những biểu hiện là liên kết ngầm định giá sản phẩm dịch vụ, phong tỏa thị trường, hạn chế các đối thủ cạnh tranh xuất hiện… Các chủ thể độc quyền hiện là các công ty, các tập đoàn Nhà nước, các hiệp hội ngành nghề…., do vậy giá nhiều hàng hóa, dịch vụ khá cao so với thị trường quốc tế như xăng dầu, vận tải… Ngược lại, một số giá độc quyền đang là lợi thế của Việt Nam nhưng các công ty lại đòi tăng ngang giá thế giới, làm mất lợi thế này. Vấn đề là phải kiểm soát độc quyền, củng cố lại tổ chức cạnh tranh để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

- Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ, và các nước chây Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.

- Thứ tám, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ tài chính tăng cường giám sát, đánh giá, dự báo các khả năng và mức độ rút vốn ở thị trường Việt Nam, ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối và tâm lý các nhà đầu tư trong nước, để ngăn ngừa rối loạn trên thị trường. Chuẩn bị trước các phương án hỗ trợ thị trường, đảm bảo việc cung cấp đầy đủ và liên tục các thông tin về hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, minh bạch thông tin về tình hình doanh nghiệp và kịp thời đưa ra các khuyến cáo khi cần thiết, trong đó coi trọng yếu tố trấn an dư luận.

- Thứ chín, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện cho các dự án, các chương trình được triển khai nhanh. Đối với kinh doanh bất động sản, cùng với việc đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư xây dựng nhà giá rẻ cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh cần hạn chế và đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.

- Thứ mười, các doanh nghiệp cần tập trung phấn đấu giảm giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ tồn đọng từ một số nước cùng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tương tự. Doanh nghiệp cần chú trọng phát triển những mặt hàng mới.

Nguồn vốn trong dân, năng lực sản xuất, chế tạo, thi công công trình với giá


nhân công rẻ là lợi thế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh khó khăn kinh tế toàn cầu. Giá vật tư, nguyên liệu, công nghệ và máy móc, thiết bị trên thị trường thế giới đang xuống thấp, các doanh nghiệp nên nắm bắt nhanh nhạy để có những giải pháp kịp thời.

Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đặt ra những thách thức to lớn nhưng Việt Nam có thể tận dụng được những cơ hội do khủng hoảng mang lại như: tận dụng các nguyên vật liệu giá rẻ để gia tăng xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết; tận dụng nguồn vốn lãi suất thấp của thế giới; tận dụng nguồn nhân lực cao cấp bị thất nghiệp từ các tập đoàn hàng đầu thế giới cho sự phát triển của Việt Nam. Vấn đề là: Lựa chọn đúng, giải pháp tốt, và thực hiện có hiệu quả cao.

3.3 Kiến nghị giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu

3.3.1.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu:

Tăng kim nghạch xuất khẩu sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao và nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Muốn vậy nhất thiết cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay cần phải được thay đổi theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ, chất xám cao, giảm dần tỉ trọng xuất khẩu hàng thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ. Cần tìm tòi và phát hiện những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu. Khi xem xét về lợi thế so sánh, điều quan trọng là ngoài lợi thế tĩnh hiện có, còn phải xem xét những lơij thế động, là lợi thế có tiềm năng và sẽ suất hiện khi có điều kinệ nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu Việt Nam.

Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, chúng ta phải có những biện pháp cụ thể, đồng bộ.

Về phía nhà nước: để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Trong tình hình hiện nay, Nhà nước cần làm tốt công việc sau đây:

Thứ nhất, Nhà nước cần ưu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại, đặc biệt là tại các cửa khẩu, cũng như đường bộ đường sắt dẫn tới biên giới, cảng biển, cảng sông và các phương tiện liên quan. Trong đó cần chú ý đến một số cửa khẩu lớn giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia…từ đó nối với Thái Lan, Myanmar… để khai thác tốt hơn những thoả thuận về thương mại trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường áp dụng các quy trình quản lý chất lượng công việc và chất lượng các


thủ tục hành chính công, thường xuyên giám sát, quản lý hiệu quả chất lượng của các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công.

Thứ hai, cần quan tâm đúng mức những hoạt động và hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu thị truơng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp chính phủ, phát triển thương mại điện tử để giảm chi phí tíêp thị. Nhà nước và các bộ máy liên quan sớm thay đổi cơ bản các chương trình xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình theo hướng chuyên nghành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ ), tập trung vào một số thị trường mới (hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển); triển khai thực hiện các chương trình để quảng bá hình ảnh quốc gia, các sản phẩm của Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ngoài; nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị truờng.

Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách cởi mở hơn đối với đầu tư nước ngoài để tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào những lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế về năng lực thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng liên quan đến xuất khẩu theo hướng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hướng tới các dịch vụ tín dụng phục vụ người mua, thay vì chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nước; khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động hàng hoá xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho vay thương mại sang tài trợ các dự án sản xuất vì mục đích xuất khẩu. Nghiên cứu việc xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào nước sở tại; đồng thời có các chính sách phù hợp để khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam tiêu thụ sản phẩm qua mạng lưới thị trường sãn có của các công ty này.

Thứ tư, chủ động nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ ASEAN, WTO để có thể vận dụng hiệu qủa ngay khi xảy ra tranh chấp quốc tế liên quan đến quyền lợi quốc gia, và đến quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam; thực hiện khẩn trương và đồng bộ các chính sách và biện pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề theo chủ trương xã hội hoá giáo dục, đào tạo. Đơn giản hoá những quy định về thủ tục và điều kiện tham gia kinh doanh dịch vụ giáo dục, để đẩy nhanh một bước chất lượng của công tác nghề và kiến thức kinh doanh vốn đang còn nhiều hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam; đẩy mạnh quá trình ra quyết định chính sách thông qua cơ chế tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước và


doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ nghành với nhau.

Tiếp tục phổ biến sâu rộng lộ trình và những cam kết của Việt Nam trong WTO cho các nghành, các doang nghiệp và mọi tầng lớp dân cư nhằm nâng cao nhận thưc về hội nhập kinh tế quốc tế, về WTO, qua đó chủ động hơn và nâng cao hiệu quả trong hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại và dịch vụ , nhất là chinh sách xuất, nhập khẩu cho phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo hộ trợ được cho các doanh nghiệp xuất khẩu vừa không vi phạm các quy định của WTO.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất- xuất khẩu.Tạo mọi điều kiện thuận lợi để có môi trường hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, vì vậy đây là con đường ngắn nhất có thể tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của chúng ta. Tiếp theo cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân theo hình thức dọc- ngang, trong đó liên kết hàng dọc là cung cấp bộ phận linh kiện cho các công ty có vồn đầu tư nước ngoài và liên kết ngang là hợp tác với các công ty đa quốc gia trên nhiều lĩnh vực để sản xuất và xuất khẩu. Có thể lúc đầu dưới dạng thương hiệu của nước ngoài, theo mạng lưới của họ, dần dần tiến tới tự mình chế tạo, thiết kế sản phẩm và tiến đến xây dựng thương hiệu, làm chủ hoàn toàn sản phẩm của mình.

Nhanh chóng đổi mới đồng bộ các chính sách tài chính, đầu tư, phát triển khoa học, công nghệ.Bên cạnh đó cần đào tạo, phát triển nguồn lao động có chất lượng cao, nhất là phải có đội ngũ kĩ sư, chế tạo giỏi các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, cải cách thủ tục hải quan cho các hàng hoá xuất, nhập khẩu nhằm tiếp tục khuyến khích xuất khẩu,và tạo niềm tin cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu

Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải dành sự quan tâm thích đáng đến việc xuất khẩu dịch vụ. Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP và thương mại dịch vụ là một trong những nội dung cơ bản của thương mại hiện đại theo quy định của WTO. Ở nước ta việc xuất khẩu dịch vụ thời gian qua chưa thực sự được chú trọng, mà chúng ta còn khá nhiều tiềm năng để phát triển, chính vì vậy chú trọng phát triển dịch vụ xuất khẩu có thể góp phần làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, đem lại thu nhập và tạo nhiều công ăn việc làm.

- Về phía các doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Một điều quan trọng là phải tập trung mọi nỗ lực để nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đây là nhiệm vụ mà tất cả các cấp từ trung ương đến địa


phương, các nghành, các cấp, các tổ chức và các doanh nghiệp cần phải cùng nhau thực hiện. Về phía các doanh nghiệp cần phải chú ý thực hiện các biện pháp sau:

Các doanh nghiệp cần phải chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trừơng, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, nghành hàng nằm trong định hướng phát triển của nhà nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới và chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, mở rộng sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Doanh nghiệp cũng cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá, nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chương trình cụ thể về đào tạo và tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kĩ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực; nhanh chóng hợp lý hoá các quá trình sản xuất- kinh doanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cường triển khai các hệ thống quản lý sản xuất- kinh doanh nhằm giảm rủi ro. giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lượng, tiết kiệm chi phí; khai thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh.

Doanh nghiệp cần đẩy mạnh mối liên kết giữa người sản xuất – cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ khâu xuất nguyên liệu, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại như tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm, kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài…Đối với nghành nghề liên quan đến thị hiếu, tính sáng tạo, cần tập trung cải thịên kĩ năng thiết kế sáng tạo mẫu mã sản phẩm cho đẹp và cho phù hợp với nhu cầu phong phú của người tiêu dùng.Vấn đề này cần học tập kinh nghiệm của các nước khác.

Trong nông nghiệp cần tăng cường xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, có chất lượng cao, các mặt hàng có giá trị gia tăng cao; nghiên cứu đưa ra thị trường


những sản phẩm mới lạ, dựa trên việc áp dụng khoa học – kĩ thuật; tiếp tục khai thác thị trường truyền thống, đồng thời không ngừng phát triển xuất khẩu sang thị trường mới, chú ý tập trung áp dụng khoa học – công nghệ tiến bộ trong nông nghiệp, tập trung vào khâu giống, phương pháp nuôi, trồng, đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị, công nghệ trong khâu chế biến, thu hoạch sản phẩm; phát triển mạnh công nghiệp chế biến để hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao và giảm bớt những thịêt hại cho nông dân. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu và dự báo nhu cầu thi trường từ phía các doanh nghiệp để các doanh nghiệp luôn chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu hàng hoá, đồng thời có quyết sách phù hợp với cơ hội và thách thức mang lại từ hội nhập kinh tế quốc tế.

Một vấn đề hết sức quan trọng đối với hàng hoá xuất khẩu nói riêng và của Việt Nam nói chung đó là vấn đề thương hiệu. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam hiện nay hầu hết đều chưa được đăng kí thương hiệu, sản phẩm được tiêu thụ dưới nhãn mác của các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.Việc không có thương hiệu hàng hoá đã ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu sản phẩm và lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu.Do vậy bên cạnh các hoạt động nói trên, các doanh nghiệp cần chú ý xây dựng cho mình một thương hiệu riêng, một đặc trưng riêng.

Về phía các hiệp hội ngành hàng: các hiệp hội nghành hàng cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với nhau nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện hữu hiệu để phản ánh, yêu cầu của doanh nghiệp tới chính phủ; cần tổ chức, thu thập, phân tích và xử lý thông tin về thị trường, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu của thị trường nhập khẩu, của đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu tiếp cận thị trường, tổ chức sản xuất và xuất khẩu .

3.3.2.Giải pháp chấn chỉnh cơ cấu nhập khẩu, chống nhập siêu quá lớn và sử dụng hàng nhập có hiệu quả

Cán cân thương mại thâm hụt ngày càng lớn là một dấu hiệu không thuận lợi cho nền kinh tế; nó chứng tỏ khả năng sản xuất và hàng hoá trong nước còn yếu. Việc cố gắng giảm dần nhập siêu, tiến tới xuất siêu cần được đặt ra cụ thể và ngay từ bây giờ, vì hiện nay nhập siêu của Việt Nam không được tài trợ từ nội lực của nền kinh tế chủ yếu từ nguồn lực bên ngoài. Điều này chứa đựng nhiều rủi ro (rủi ro

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí