Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 50

khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ dầu tư hình thành dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời gian đáo hạn, khả năng sinh lợi, độ an xã hội. hoá hoạt động đau tư chứng khoán. Quỹ đầu tư tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán ưa thích. NÓ góp Phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.

II. CÁC LOẠI HÌNH QUỸ ĐẦU Tư

1. Dựa vào nguồn vốn huy động

1 1. Quỹ đầu tư tập thể Quỹ đầu tư tập thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Những người dầu tư vào quỹ có thể là các thể nhân hoặc các tổ chức kinh tế, nhưng da phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư tận thể cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.

1.2. Quỹ đầu tư tư nhân Khác với quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư tư nhân huy ngày càng tạo khả năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ dầu tư hình thành dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời gian đáo hạn, khả năng sinh lợi, độ an toàn xã hội. hoá hoạt động đau tư chứng khoán. Quỹ đầu tư tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán ưa thích. NÓ góp Phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.

II. CÁC LOẠI HÌNH QUỸ ĐẦU Tư

1. Dựa vào nguồn vốn huy động 1 1. Quỹ đầu tư tập thể

Quỹ đầu tư tập thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Những người dầu tư vào quỹ có thể là các thể nhân hoặc các tổ chức kinh tế, nhưng da phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư tận thể cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.

1.2. Quỹ đầu tư tư nhân

Khác với quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư tư nhân huy thông qua các nhà môi giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.

2.2. Quỹ đầu tư dạng mố Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công chúng và thực hiện việc mua lại cổ phiếulchứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ phiếulchứng chỉ đầu tư của quỹ mở luôn gắn trực tiếp với giá trị tài sản thuần của quỹ. CỔ phiếu}chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được uỷ quyền cua quỹ.

3. Dựa vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ

Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 50

3.1. Quỹ đầu tư dạng công ty Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân đầy đủ, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước và cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị quỹ. Các nhà dầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các thành viên hội đồng quản trị. Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty là công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra, tuỳ từng nước, còn có sự tham gia của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh phát hành chính. Hội đồng quản trị quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với các công ty quản lý quỹ nếu công ty quản lý quỹ hoạt động không có hiệu quả.

Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư do hội đồng quản từ quỹ thuê quản ly đầu tư và họ được hưởng phí từ việc quản lý đầu tư

đó Thông thường, các công ty quản lý quỹ cố

đội ngũ các nhà điều hành quỹ

rất

chuyên nghiệp. HỌ có trình độ nghiên cứu và phân tích đầu tư rất cao. Nhà tư vấn đầu tư có trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. CÓ một vài quỹ, việc quản lý đầu tư và quản trị kinh doanh nói chung tách rời nhau do các tổ chức khác nhau đảm nhận. Ngân hàng bảo quản là nơi giữ và bảo quản các tài sản của quỹ, đồng thời tiến hành giao hoặc nhận các chứng khoán cho quỹ trong các giao dịch Ngoài các tổ chức tham gia chính đã nêu, tuỳ từng nước còn có thể có các dại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành chính tham gia vào h08t động của quỹ dầu tư. Đại lý chuyển nhượng thường

được uỷ nhiệm để tiến hành việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu quy đó là quỹ dạng mở). Nhà bảo lãnh phát hành chính giúp quy chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu tư

3.2. quỹ đầu tư dạng hợp đồng Quy đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty là trong mô hình này quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Quỹ hoàn toàn chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành nên quỹ. MÔ hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của quỹ: công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và bảo quản, và các nhà đầu tư. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Ngân hàng giám sát và bảo quản Ở mô hình này có vai trò quan trọng hơn nhiều so với ngân hàng bảo quản trong mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo quẩn 'vốn và các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát, bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư đã đề ra. Quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát, bảo quản được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Người đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc họ mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của quỹ.

III- HÌNH THÁI QƯỸ TRÊN THẾ GIỚI

1. Mỹ

ĐẦU Tư

TẠI MỘT SỐ

THỊ

TRƯƠNG CHƯNG KHOÁN

Các loại hình quỹ đầu tư chính tại Mỹ theo Luật công ty đầu tư 1940:

+ Công ty phát hành chứng chỉ làm mệnh giá (Face- Amount Certiũcate Company): loại hình công ty này hầu như không còn tồn tại nữa. Các nhà đầu tư vào công ty phát hành chứng chỉ ghi mệnh giá trả một khoản cố định hàng tháng cho công ty đầu tư để đầu

tư số tiền đó vào các công cụ nợ có chất lượng cao nhất như các công cụ nợ của chính phủ Mỹ và các trái phiếu công ty và địa phương xếp hạng AAA. Chứng chỉ cam kết với người đầu tư một tỷ lệ sinh lời đảm bảo tới một ngày cố định, ví dụ là 10 năm, chứng chỉ đáo hạn và người đầu tư sẽ nhận được khoản tiền bằng mệnh giá dã quy định. Tổng số tiền người đầu tư phải trả ít hơn số tiền mệnh giá với khoản chênh lệch là lãi suất tích luỹ trên khoản đầu tư.

+ Công ty quản lý (Management~ Company): là một quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty, phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ đưa vào danh mục dầu tư của quỹ. Người quản lý được toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua bán chứng khoán phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ. Công ty quản lý được cấu trúc dưới hai dạng: công ty đầu tư dạng mở và công ty đầu tư dạng đóng. Công ty quản lý dạng mở là các công ty đầu tư được biết dưới tên các quỹ tương hỗ (mutual fund) và cả dạng công ty đầu tư rất phổ biến Ở Mỹ. Công ty chỉ phát hành cổ phiếu phổ thông và thực hiện việc mua lại bất kỳ lúc nào. Cấu trúc vận động vốn của các quỹ tương hỗ tương tự như mọi quỹ đầu tư dạng mở. . Công ty quản lý dạng đóng là công ty chỉ phát hành một lần. Cấu trúc vận động tương tự như các loại quỹ dầu tư dạng đóng. .

+ Đơn vị tín thác đầu tư (Ung Investment Trust): là một dạng công ty đầu tư được tổ chức theo kiểu "hợp đồng tín thác" (trust indenture) thay vì lập công ty. Quỹ nhát hành "đơn vị chứng chỉ hưởng lợi" biểu hiện cho phần lợi ích đối với các loại chứng khoán trong quỹ. CÓ hai dạng "đơn vị tín thác đầu tư" là: tín thác cố định (fixed trust) và tín thác tham gia (participating trust) Tín thác cố định: quỹ tín thác lựa chọn danh mục các chứng khoán (chủ yếu lả trái phiếu) để đầu tư. Một khi danh mục đầu tư đã thiết lập sẽ không có bất kỳ sự thay đổi nào ' liên quan tới các chứng khoán cấu thành danh mục, không có bất kỳ sự giao dịch thêm nào, kể cả mua và bán. Quỹ không cần sự quản lý đầu tư. Quy sẽ bán các

"đơn vị" của danh mục đầu tư cố định cho các nhà đầu tư. Tín thác tham gia: thay vì quỹ lựa chọn các loại chửng khoán để dầu tư, quỹ dầu tư vào cổ phần của một công ty quản lý, thông thường là cổ phần của các quỹ tương hỗ. Bằng cách này, những người mua chứng chỉ hưởng lợi của các ' tín thác tham gia" đã tham gia gián tiếp vào việc mua các cổ phần của các quy tương hỗ.

2. Anh

Các quỹ đầu tư tại Anh tồn tại dưới hai loại hình: quỹ tín thác đầu tư (investment trust) và quỹ tín thác đơn vị (ung trust):

+ Quỹ tín thác đầu tư (ITCS) là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và không phải là hình thức tín thác dưới khía cạnh pháp lý. ITCS được biết đến như là quỹ đầu tư dạng đóng. Những nhà đầu tư trong ITCS mua các cổ phiếu phổ thông của ITCS và sau đó các khoản thu nhập của họ được trả theo dạng cổ tức và lỗ hoặc lãi vốn từ các cổ phiếu của họ. ITCS sử dụng tiền của các cổ đông để đầu tư vào các danh mục chứng khoán chuyên dụng hoặc đã được đa dạng hoá. Một ví dụ về danh mục dầu tư đã được đa dạng hoá là Quỹ đầu tư Foreign ả Colomal với 39% tài sản được đầu tư vào cổ phiếu của Anh, 26% vào cổ phiếu của khu vực Bắc Mỹ, 12% vào cổ phiếu của Nhật Bản và Trung cận đông, 16% vào cổ phiếu của châu âu và các quốc gia khác, và

7% còn lại vào tiền mặt và chứng khoán có lãi suất cố định vào 31-7-1992. ITCS

không được phép xúc tiến việc bán cổ phiếu của chính những quỹ này. Nhà đầu tư mua bán cổ phiếu của ltcs cũng giống như khi họ mua bán cổ phiếu IEI, thong qua những tổ chức môi giới hay những nhà tạo lập thị trường trên sở giao dịch. Mặt khác quỹ tín thác đầu tư có thể sử dụng một số tiền để thực hiện hoạt động tiếp thị các chứng chỉ quỹ của mình và thưởng các phí hoa hồng cho đại lý. Đây là lý do chính đối với những thành công của ITCS trong những năm gần đây, cho dù những chi phí hoạt động của chúng thường khá cao và những hoạt động đầu tư thường không tết. Vốn của một ITC thì cố định (trừ phi nó vay tiền hoặc phát hành chứng quyền), với sự tăng hoặc giảm giá cổ phiếu đối với giá trị tài sản ròng thu được từ nhu cầu hiện ại đối với các cổ phiếu. Hội đồng quản trị sẽ quyết định chính sách dầu tư và việc dầu tư được tiến hành thong qua một công ty quản lý quỹ.

+ Quỹ tín thác đơn vị. Một nhà dầu tư đầu tư vào quỹ tín thác đơn vị bằng việc mua các đơn vị chứng chỉ từ nhà quản lý quỹ tín thác đầu tư. Quỹ tín thác dầu tư được biết như là quỹ mở (trái với ITCS được biết như là quỹ đóng) bởi vì quy mô của một quỹ khác nhau theo số chứng chỉ được phát hành. Nếu một nhà đầu tư muốn đầu tư vào quỹ, thì 'những chứng chỉ mới sẽ dược phát hành để đáp ứng nhú cầu và người quản lý quỹ đầu tư tiền đó (trừ đi phí "trả trước" là phí quản lý) vào chứng khoán để tăng quy mô của danh mục đầu tư. Nếu nhà đầu tư không muốn đầu tư nữa, họ sẽ bán lại

chứng chỉ quỹ đầu tư của mình cho những nhà quản lý quỹ và quỹ sẽ rút bớt quy mô của mình vì tiền đã được trả lại, nhà quản lý theo nguyên tắc phải bán một phần danh mục đầu tư của mình để mua lại chứng chỉ từ nhà.đầu tư. Những nhà quản lý quỹ mua và bán chứng chỉ của quỹ tại mức giá trị cơ sở của danh mục đầu tư, với danh mục đầu tư được định giá trên cơ sở hàng ngày. Chứng chỉ của quỹ tín thác đơn vi dược mua và bán tại mức giá ngang với giá trị tài sản ròng cơ sở, như vậy sẽ không có việc tăng hoặc giảm giá. Nhu cầu đối với quỹ tín thác đơn vị thu dược từ những chứng chỉ phát hành, dây được xem như là quy mô của quỹ Ban giám sát sẽ kiểm tra xem việc chính sách đầu tư có dang được thực hiện một cách chính xác hay không, những chính sách đầu tư sẽ được những nhà quản lý quỹ lựa chọn. 3. Nhất Bản

Hai loại hình quỹ đầu tư tại Nhật Bản là quỹ tín thác kiểu hợp đồng và quỹ tín thác kiểu công ty. Quỹ tín thác kiểu hợp đồng là quỹ mà việc quản lý tài sản của quỹ theo hợp đồng được ký giữa một công ty quản lý và nhũng người đầu tư tham gia quỹ và không thành lập pháp nhân. Quỹ tín thác kiểu công ty là một 'công ty được thành lập vì mục đích đầu tư của quỹ. Về mặt kỹ thuật, quỹ tín thác kiểu hợp đồng được gọi là "quỹ tín thác đầu tư chửng khoán" và quỹ tín thác kiểu công ty gọi là "công ty tín thác đầu tư chứng khoán".

+ Quỹ tín thác đầu tư kiểu hợp đồng được kết hợp bởi người tín thác, người được tín thác và người hưởng lợi và được vận hành theo hợp đồng tín thác dược ký giữa họ. Người tín thác là công ty quản lý đầu tư chứng khoán được Uỷ ban Tái cơ cấu Tài chính cho phép, và công ty quản lý này xây dựng và thiết lập các sản phẩm mà quỹ đầu tư phải đầu tư tài sản của quỹ, xây dựng hợp đồng tín thác, và gửi các thông báo của quỹ cho những chủ thể được uỷ quyền theo pháp luật và đưa ra những chỉ dẫn cho người được tín thác có liên quan đến việc đầu tư các quỹ của công ty. Người được tín thác là công ty tín thác hoặc một ngân hàng thực hiện việc tín thác. NÓ ký kết một hợp đồng tín thác đầu tư với người tín thác, giữ tài sản tín thác Ở nơi lưu giữ, đầu tư theo chỉ dẫn của người tín thác, phân quyền hưởng lợi, phát hành chứng chỉ hưởng lợi đại diện cho quyền đó. Và người đầu tư (người hưởng lợi) mua chứng chỉ hưởng lợi và nhận khoản phân bổ lợi nhuận có được từ việc đầu tư những tài sản tín thác.

+ Quỹ tín thác đầu tư kiểu công ty được lập bởi một hoặc một số người sáng lập theo Luật thương mại bằng việc xây dựng các điều lệ công .ty và bằng việc đăng ký chúng với Uỷ ban Tái cơ cấu Tài chính. Các nhà đầu tư trở thành cổ đông bằng việc mua các chứng chỉ đầu tư do công ty tín thác phát hành. Giám đốc quỹ được các cổ đông bầu trong cuộc họp dại hội đồng cổ đông, và việc đầu tư tài sản của quỹ và lưu ký tài sản đó được giao cho một công ty khác. Thu nhập có được từ việc đầu tư chứng khoán được phân phối dưới dạng cổ tức cho các cổ đông. Quỹ tín thác đầu tư theo cả hai kiểu nói trên được chia ra thành kiểu quỹ mở và kiểu quỹ đóng phụ thuộc vào việc nhà đầu tư có hay không có quyền yêu cầu mua lại chứng chỉ hưởng lợi hoặc chứng chỉ đầu tư. Hầu hết các quỹ tín thác đầu tư kiểu hợp đồng hiện có Ở Nhật Bản là kiểu quỹ mở. Tuy nhiên, theo nghĩa mà các chứng chỉ hưởng lợi được niêm yết và giao dịch trên sở -giao dịch chứng khoán trên khắp nước Nhật, quỹ tín thác đầu tư được niêm yết có mối liên kết với chỉ số Nikkei 300 mà được thiết lập vào năm 1995 có thể được gọi là kiểu quy đóng. Quỹ quốc gia (một quý tín thác đầu tư nước ngoài kiểu công ty) được niêm yết trên SỞ Giao dịch Chửng khoán Osaka là một kiểu quỹ đóng.

4. Hàn Quốc I~ĩiện nay, Hàn Quốc đã cho phép tồn tại cả hai loại hình quỹ đầu tư: tín thác đầu tư chứng khoán dạng hợp đồng và quỹ đầu tư dạng công ty.

+ Quỹ tín thác đầu tư chứng khon~ (Securities Investment Trust) là loại .hình quỹ phát triển từ những năm đầu hoạt động của thị trường chứng khoán Hàn Quốc. Các quỹ này hoạt động tương tự như các quỹ tín thác dạng hợp đồng kiểu Anh. Mặc dù các quỹ dạng mở được phép hoạt động, nhưng các quỹ Un thác đầu tư chứng khoán chủ yếu vẫn là các quỹ đóng có thời hạn kết thúc nhất định. Các công ty quản lý quỹ lập quỹ và chào bán chứng chỉ hưởng lợi cho người dầu tư, tiến hành các hoạt động đầu tư cho quỹ. CÓ hai loại hình công ty quản lý quỹ quản lý các quỹ tín ' thác đầu tư chứng khoán là công ty tín thác dầu tư (Investment Trust Company - ITC) và công ty quản lý tín thác đầu tư (Investment Trust Manágement Company - ITMC). Hai loại hình công ty quản lý quỹ này chỉ khác biệt nhau về phạm vi hoạt động. ITC được phép chào bán chứng chỉ đầu tư trực tiếp cho các nhà đầu tư thông qua mạng lưới của chính mình, còn ITMC không được trực tiếp bán chứng chỉ đầu tư cho người đầu tư mà phải chào bán thông qua các đại lý là các công ty chứng khoán hoặc các ngân hàng.

+ Công ty đầu tư chứng khoán (Securities Investment Company-sic) là loại hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng theo kiểu quỹ dầu tư của Mỹ được phép hoạt động tại Hàn Quốc từ năm lđ98. Các công ty đầu tư chứng khoán có hình thức pháp lý tương tự như các công ty đầu tư của Mỹ. Người dầu tư vào quỹ sẽ mua cổ phần và trở thành cổ đông của quỹ. Công ty đầu tư chứng khoán uỷ thác việc dầu tư cho công ty quản lý quỹ (Fund Management Company-fmc), là loại hình công ty được thành lập để quản lý các quỹ đầu tư dạng công ty.

IV HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU Tư

1 Huy động vốn

1.1. Phương thức hình thành vốn

a. Phương thức phát hành Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn hình thành nên quỹ. Tương tự như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận được các cổ phiếu xác nhận số cổ phần mình sở hữu tại công ty. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như các cổ phần của quỹ dạng công ty) Quỹ sẽ phát hành chứng chỉ dầu tư, xác nhận số đơn vị tương đương với số vốn người đầu tư góp vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu tư có thể phát

hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được giao dịch và chuyển

nhượng như cổ phiếu, tuy quyền và nghĩa vụ của người hưởng lợi (người nắm giữ chứng chỉ đầu tư) có một số khác biệt so với các cổ dông trong mô hình quỹ dạng công ty.

b. Định giá ban đầu Việc định giá cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư lần dầu để lập nên quỹ do các tổ chức đứng ra thành lập quỹ xác định. Đối với các quỹ theo mô hình công ty, việc đình giá cổ phiếu quỹ là do các tổ chức bảo đảm (fund sponsor) hoặc các tổ chức bảo lãnh phát hành xác định giá. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư của quỹ. Chi phí chào bán lần đầu (bao gồm chi phí cho các đại lý' chi phí in ấn tài liệu...) được khấu trừ từ tổng giá trị của quỹ huy động được.

c Phương thức chào bán Về cơ bản, có hai phương thức chào bán: chào bán qua các tổ chức bảo lãnh và do quỹ trực tiếp chào bán.

Xem tất cả 480 trang.

Ngày đăng: 13/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí