Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 48

số lượng chứng khoán được ghi trong mỗi chứng chỉ. Việc thanh toán được thực hiện vào thời điểm khoá sổ đồng thời với việc chuyển giao các chứng chỉ. Tuy nhiên, các chứng chỉ không phải được mang đến vào thời điểm khoá sổ thực tế. Hai ngày trước khi khoá sổ, các đại diện của tổ chức bảo lãnh chính có mặt tại văn phòng của đại lý chuyển nhượng để đảm bảo các chứng khoán đó đã được chuẩn bị hợp lý. Khi tổ chức bảo lãnh thanh toán cho tổ chức phát hành, các chửng chỉ sẽ được trao cho tổ chức bảo lãnh chính tại văn phòng của đại lý chuyển nhượng.

4. Nghiệp vụ tư vấn dầu tư

4.1. Khái niệm và phân loại hoạt động tư vấn Từ trước tới nay, ta đã từng nghe nói tới nhiều loại trình hoạt động tư vấn khác nhau như tư vấn pháp luật. tư vấn đầu tư nước ngoài, tư vấn y tế..., và bây giờ lại có một khái niệm mới là tư vấn chứng khoán. Cũng như các oạt động tư vấn khác, nội dung của hoạt động tư vấn chứng khoán là đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng. Đối với các loại hình tư vấn khác, ví dụ như tư vấn pháp luật thì tính chính xác của lời khuyên là cần thiết và có khả năng diễn ra đúng trên thực tế. Tuy nhiên, đối với hoạt động tư vấn chứng khoán, do đặc điểm riêng trong ngành là giá cả thường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về ná trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán - việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là một hoạt động nghiệp vụ cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc. Ở phấn lớn các nước, người ta định nghĩa tư vấn chứng khoán là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm mục đích thu phí. Như vậy, họ quan niệm rằng chỉ có những hoạt động tư vấn có thu mới là đối tượng quản lý, còn những lời khuyên đưa ra không có mục đích ấy sẽ không phải là đối tượng quản lý, trừ phi đó là những lời khuyên thất thiệt nhằm lũng đoạn thị trường và kiếm lợi cho bản thân. Đối với Việt Nam, việc quản lý các hoạt động tư vàn là cần thiết nhưng lại vô cùng khó khăn trong diều kiện ban đầu, khi các hoạt động kinh doanh chứng khoán chưa đi vào quy củ, hệ thống pháp luật chưa chặt chẽ. Để hiểu rõ về hoạt động

tư vấn chứng khoán, chúng ta có thể phân loại hoạt động này theo một số tiêu chí nhưa) Theo hình thức của hoạt động tư vấn: có thể gồm:

- Tư vàn trực tiếp: Tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như diện thoại, fax... để hỏi ý kiến.

- Tư vấn gián tiếp: Là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin lên những phương tiện truyền thông như Internet để bất kỳ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận được nếu muốn. bị Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn:

- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng. Tư vấn uỷ quyền: Với nghiệp vụ này, nhà tư vấn tư vấn và quyết định hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng.

c) Theo đô4 tượng của hoạt động tư vấn: Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác.

- Tư vấn đầu tư: Là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường. Các cách phân loại hoạt động tư vấn như vậy đan xen vào nhau và làm nên tính phong phú của hoạt động này. Muốn đi sâu hơn vào từng hoạt động một ta có thể đi theo cách phân loại thứ ba, từ đó có cái nhìn tổng quan đối với toàn bộ nghiệp vụ.

4.2. Điều hiện và nguyên tắc của hoạt động tư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.

- Điều kiện về vôn và nhân sự Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng vốn với nghiệp vụ này chỉ cần đủ để duy từ các hoạt động bình thường của công ty như thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác... Với Việt Nam, theo Nghị định 48, vốn pháp định với hoạt ộng này là 3 tỷ đồng. Với nhiều nước phát triển như Mỹ, do tính chất của nghiệp vụ này, các công ty chuyên hoạt động tư vấn phải là các công ty trách nhiệm vô hạn, tức là được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp tư nhân hay phổ biến hơn là công ty hợp danh. Tuy nhiên, Ở nhiều nước đang phát triển, các công ty này vẫn có thể là các công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy các điều kiện về ván

đối với một công ty tư vấn không lớn nhưng những yêu cầu về nhân sự lại rất chặt chẽ. Những người làm công tác tư vấn phải có kiến thức chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với ngành chứng khoán, họ phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn những người chỉ làm môi giới thông thường. Những yêu cầu này có thể bao gồm các loại bằng cấp như tối thiểu phải tết

Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 48

nghiệp đại học và phải vượt qua một số

kỳ thi do ngành chứng khoán tổ

chức.

Thường đó là kỳ kiểm tra của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Riêng với Việt Nam, trong thời gian đầu, do chưa thể có hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán nên để xây dựng thị trường, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán thông qua Trung tâm Đào tạo của mình. Nguyên tắc: Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán; nếu người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ những lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khỉ hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau: 1 Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố đính, nỏ luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý. Giá in của chứng khoán. là tổng hợp quan mềm của các nhà đầu tư về loại chứng khoán đó, do vậy nó có thể thay đôi lien tục cùng với những thay đổi trong nhận định của các nhà dầu tư.

2. Luôn nhắc nhở khách hàng răng những lời tư vấn của mình có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.

3. Không được dụ dỗ mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lô gích, khoa học. Những nguyên tắc này xem ra có vẻ đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện. Khi một nhà môi giới thực hiện hoạt động của mình, họ có thể

sẽ phạm phải một số sai lầm kể rên và đó sẽ là nguyên nhân dần đến những mâu thuẫn giữa khách hàng với nhà môi giới đó.

4.3. Hoạt động nghiệp vụ

- Tư vấn cho người phát hành: Đây luôn luôn là một mảng hoạt động quan trọng, song song với mảng hoạt động tư vấn đầu tu. Hoạt động này được thực hiện tết sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những loại hàng hoá có chất lượng cho thị trường. Tư vấn cho người phát hành có thể gồm:

- Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp: Nhả tư vấn chứng khoán là chuyên gia đánh giá về tình hình tài chính doanh nghiệp, họ phân tích các loại chứng khoán chủ yếu bằng phương pháp đánh giá tình hình tài chính của người phát hành chứng khoán đó. Do vậy, việc Đhân tích tài chính của các nhà tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức dụng được chính mình, từ đó cớ các biện pháp cải thiện tình hình.

- Giúp người phát hành xác định chính xác giá trị của doanh nghiệp: Là việc xác định các tài sản hữu hình như máy móc, nhà xưởng... và các tài sản vô hình như uy tín, nhãn hiệu thương mại, bằng phát minh sáng chế... Đây là một công việc đầy khó khăn, phức tạp. Việc xác định giá trị các 'tài Bản hữu hình như máy móc, thiết bị có thể không khó khăn lắm trong điều kiện các thị trường máy móc và thiết bị cũ hoạt động mạnh, mặc dù nếu các loại máy móc đó là những thiết bị đặc chủng thì việc xác định cũng sẽ có những nguyên tắc nhất định. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi ta xác định giá trị các tài sản vô hình. Các bằng phát minh sáng chế, các nhãn hiệu thương mại luôn được định giá khác nhau tuý theo từng người mua. Xác định giá trị doanh nghiệp là khâu quan trọng trước khi phát hành chứng khoán vì nó dùng để định giá chứng khoán phát hành, đặc biệt là khi doanh nghiệp mới hát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu. Thông thường, trước khi cùng doanh nghiệp thống nhất định giá, các công ty chúng khoán sẽ thăm dò tình hình thị trường, tìm hiểu sự ưa thích và quan điểm giá cả của những người mua tiềm năng đối với loại chứng khoán đó.

- Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: Tuý theo điều kiện cụ thể mà xác định doanh nghiệp đó nên phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Nếu phát hành cổ phiếu thì cần phải theo dõi thái độ của các cổ đông hiện thời vì tỷ lệ sở hữu của họ có thể bị giảm đi trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu chỉ có ảnh hưởng với những cổ đông đang nắm quyền kiểm soát, còn với những người coi cổ phiếu chỉ đơn giản là một khoản

dầu tư thì lại vui mừng vì diều này. Nếu cổ phiếu của một doanh nghiệp phát hành rộng rãi cho công chúng thì công ty sẽ thu được nhiều điều lợi và bản thân các cổ đông cũng có lợi không ít. Khi cổ phiếu được phát hành rộng rãi thì thông thường giá cả của chúng tăng lên, đồng thời lại có một thị trường cho cổ phiếu đó, giúp những người đầu tư có thể thu hồi vốn dễ dàng bằng cách bán lại cổ phiếu của mình. Trong trường hợp doanh nghiệp quyết định phát hành trái phiếu thì việc xác định mức tín nhiệm là công việc bắt buộc. Các nhà tư vấn có thể giúp doanh nghiệp xác định mức tín nhiệm trên cơ sở khả năng trả nợ. Các công ty có mức tín nhiệm càng cao càng có khả năng phát hành trái phiếu với lãi suất thấp và dễ dàng thu hút những người đầu tư Quá trình xác định mức tín nhiệm là một quá trình phức tạp. Nhà tư vấn phải xem xét mọi khía cạnh lien quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, nhất là các dòng tiền thu nhập, tính ổn định của các dòng thu nhập này. Việc xem xét còn phải dựa vào quá khứ và triển vọng tương lai của doanh nghiệp. Vì việc xác định mức tín nhiệm có liên quan rất lớn đến chi phí vay vốn của các doanh nghiệp nên uy tín của nhà tư vấn là vô cùng quan trọng. Người ta sẽ chỉ tin theo nhũng nhà tư vấn có uy tín, có kinh nghiệm và luôn luôn nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Một sự đánh giá sai lệch của nhà tư vấn sẽ làm cho thị trường có cách nhìn không đúng về một nhà phát hành, về một l081 chứng khoán nào đó, và có thể dẫn đến những diễn biến không tết trong tâm lý của các nhà đầu tư.

- Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: Khi một doanh nghiệp nhận thấy, hay thông qua quá trình tư vấn mà nhận thấy cơ cấu vốn của mình không phù hợp với các điều kiện kinh doanh hiện tại, không phù hợp với ngành nghề của mình thì họ sẽ tìm cách tái cơ cấu nguồn vốn để nâng cao hiệu quả và đảm bảo kinh doanh an toàn. Trong trường hợp này, công ty chứng khoán là đối tác thích hợp vì nó là nhà chuyên môn trong inh vục tài chính. Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp: Khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm doanh nghiệp khác hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác, nó sẽ tìm đến một công ty chứng khoán để nhờ trợ giúp các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành thế nào là phù hợp và đỡ tốn kém chi phí, cách thức cơ cấu nguồn vốn sau khi sáp nhập. Ở các nước, hoạt động tư vấn này rất phát triển vì nó xuất phát từ nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh. Tư vấn đầu tư. Đây là hoạt động rất phổ biến trên thị trường thứ cấp, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, dưới nhiều hình thức khác nhau. ĐÓ có thể là

những lời khuyên hay những bản tin, những bài phân tích hoặc những hợp đồng dịch vụ. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm riêng, và việc thực hiện và giám sát mỗi hình thức này lại có những tính chất khác nhau. Để rõ hơn về vấn đề này, ta có thể đi vào từng hoạt động cụ thể: Tư vấn trực tiếp: Hoạt động này thường diễn ra cùng với hoạt động môi giới. Khi khách hàng gọi điện thoại tới cho nhà môi giới, thường người ta sẽ hỏi rằng: "Giá cả hôm nay như thế nào" và sau khi được nghe trả lời, họ có thể muốn biết quan điểm của nhà môi giới về xu hướng giá cả. Trong trường hợp này, nhà môi giới không được phép đánh giá về xu hướng giá cả của chứng khoán mà chỉ được nêu những sự kiện thực tế đã diễn ra một cách trung thực và hỗ trợ cho nhà đầu tư muốn mua bán bằng cách khuyên người dầu tư về mức giá đặt hợp lý để có thể mua bán dược. việc quản lý hoạt động này vô cùng khó khăn vì rết khó tìm dược bằng chửng về các hành vỉ tư vấn của nhà môi giới, đồng thời có thể hoạt động tư vấn mà không cần có giấy phép. Điều đó có thể dẫn đến những lỏng lẻo về chất lượng của hoạt động tư vấn, gây nên những mâu thuẫn giữa việc quản lý và thực tế hoạt động của công ty môi giới. Hơn nữa, nghiệp vụ tư vấn loại này có những mâu thuẫn với hoạt động tự doanh. Nêu không tách biệt các hoạt động này trong cùng một công ty thì có thể nhà môi giới nếu cần bán một loại chứng khoán nào đó thì sẽ khuyên khách hàng mua vào Nữ nếu họ cần mua thì lại kbuybn khách hàng bán rao . Cung cấp thông tin va đánh giá tình hình: Trước đây việc cung cấp thông tin dược hiểu là việc phát hành các bản tin dưới hình thức giấy tờ Ngày nay với những tiến bộ của công nghệ thông tin hiện đại, việc

cung cấp thông tin cô thể dưới hình thức giấy tờ có thể là qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là Internet. Các bản tin này có lúc chỉ đơn giản là đưa ra những con sốbiê~n đồng giá cả: các báo cáo tài chính, báo cáo Linh hình kinh doanh của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, để các bản tin hấp dẫn hơn, người ta thường có kèm những lời phân tích và đánh giá tình hình thị trường, tình hình giá cả của các loại chứng khoán Người ta có thể dùng lời văn hay những biểu đồ để phân tích, những biểu đồ này thưởng được xây dựng theo những lý thuyết thị trường nhất dính hoặc theo những đánh giá riêng của từng nhà tư vấn. Việc phân tích các tình huống thực tế cũng có thể rất khác nhau. CÓ người quan niệm rằng tình huống diễn biến như vậy là tết, là hợp lý, lại có người cho rằng cùng

tình huống này, diễn biến như vậy là rất xấu. Việc phân biệt ranh giới giữa tư vấn kiểu này với lũng đoạn thị trường cũng không hoàn toàn rõ ràng. Nếu một nhà tư vấn được phép phát ngôn thoải mái, họ rất có thể sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư. Ai cũng biết rằng các nhà tư vấn là những chuyên gia trong lĩnh vực của họ, họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người khác, do vậy họ có thể đánh giá tình hình chính xác hơn và những lời phát ngôn của họ có thể trở thành những lời tiên đoán, định hướng cho toàn bộ thị trường. Nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến thức, kinh nghiệm và tư duy chủ quan, do vậy việc đánh giá tình huống của mỗi nhà tư vấn là khác nhau. Theo tư duy thông thường, không ai tự coi mình là sai cả, một nhà tư vấn cũng vậy, họ luôn khẳng định những phân tích, dự đoán của mình là

chính xác, có căn cử

khoa học. Mặt khác, họ

lại 'không phải chịu trách nhiệm về

những dự đoán của mình, họ chỉ phân tích còn quyền quyết định lại là của các nhà đầu tư. Khi một nhà tư vấn muốn lũng đoạn thị trường, anh ta có thể lèo lái những phân tích, đánh giá và dự đoán xu hướng thị trường theo hướng mà mình muốn, tạo ra tâm lý làm theo của các nhà đầu tư và thu lợi bất chính. Nhà tư vấn cũng có thể áp dụng hay tự phát minh ra những công thức phức tạp, khó hiểu và đánh giá tình hình dựa trên những công thức đó. Những người bình thường, không có kiến thức về lĩnh vực tài chính sẽ không thể hiểu nổi những công thức như vậy mà chỉ còn biết hút theo sự dẫn dắt của người viết. Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động này dù sao cũng đỡ khó khăn hơn so với quản lý hoạt động tư vấn trực tiếp vì các bản tin, bản báo cáo đánh giá là những bằng chứng về hành vi của nhà tư vấn. CƠ quan quản lý nhà nước yêu cầu nhà tư vấn phải có kiến thức, kinh nghiệm cũng như hái độ khách quan khi nhìn nhận sự việc. Thái độ khách quan của nhà tư vấn chính là thước đo đạo đức công việc của anh ta. CƠ quan quản lý có thể bắt nhà tư vấn khi làm các báo cáo phải nhìn nhận sự việc một cách toàn diện, đánh giá trên cơ sở tổng hợp các số liệu, không được phép thiên lệch về một hay một vài sự kiện nào đó mà bỏ qua những sự kiện khác. Nhà tư vấn cũng không được phép đưa ra những lời khẳng định như: "Ngày mai giá cổ phiếu A lên" vì nó tuy là một lời đánh giá nhưng lại mang tính lôi kéo, kích động các nhà đầu tư hôm sau đổ xô vào thị trường này. Như vậy, việc dự đoán tình ' hình thị trường không được phép mang tính ngắn hạn. Đánh giá về một loại chứng khoán nào đó phải có tính dài hạn, tức là trên cơ sở các phân tích vĩ mô và vi mô, đánh giá triển vọng lâu dài của

một loại chứng khoán nào đó. Tính khách quan và chính xác của những bản tin phân tích chính là uy tín, chất lượng của nhà tư vấn và anh ta chỉ có thể tồn tại nếu làm được điều đó. Một điểm quan trọng khác là, nếu nhà tư vấn đồng thời kiêm thêm nhiều hoạt động dịch vụ khác thì hoạt động tư vấn cũng làm ảnh hưởng đến uy tín chung. Một nhà môi giới tư vấn không tất sẽ bị khách hàng tẩy chay, còn nếu anh ta không hoạt động tư vấn sẽ có ít khách hàng đến với hoạt động môi giới của anh ta hơn. Tư vấn uỷ quyền: Đây thực chất là hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Từ trước tới nay, ta đã nghe nói về hoạt động này trong các tài liệu, kể cả trong Nghị định 48, chúng tôi chỉ xin đề cập rõ hơn một chút về hoạt động này. Trong Nghị định 48, quản lý danh mục đầu tư được định nghĩa là hoạt động quản lý vốn của khách hang thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Hiểu một cách nôm na, hoạt động đó có nghĩa là một hay một số khách hàng có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư, họ tìm kiếm một hình thức đầu tư có mức' sinh lợi cao hơn so với chỉ gửi tiết kiệm đơn thuần và cũng chấp nhận mức độ rủi ro lớn hơn. Tuy nhiên, những khách hàng này không có đủ thời gian và kiến thức chuyên môn để đầu tư, do vậy họ chọn phương án là thuê người khác đầu tư giúp mình và trả một khoản phí nhất định. HỌ có thể chọn phương án mua chứng chỉ đầu tư của các quỹ đầu tư nếu như họ chỉ có ít tiền và không quan tâm nhiều đến các hoạt động đầu tư của mình. Nhưng nếuhọ có một số vốn đủ lớn và muốn có quyền quyết định trong đầu tư thì họ sẽ thuê một nhà quản lý danh mục đầu tư, thường là các công ty chứng khoán, giúp mình. Trên thực tế, một số nhà đầu tư có số vốn nhàn rỗi thường xuyên lớn sẽ tự mình tổ chức đội ngũ quản lý danh mục đầu tư riêng vì họ có thể tin tưởng vào đội ngũ này, đồng thời mức chi phí tính trên tổng tài sản dùng đầu tư là chấp nhận được. Những người có số vốn ít hơn nhận thấy việc thuê đội ngũ riêng là không hợp lý vì chi phí cao, họ sẽ tìm đến các công ty chứng khoán, những nhà chuyên .môn trong lĩnh vực đầu tư để nhờ giúp đỡ. Các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ này sẽ được hưởng phí quản lý và được nhà đầu tư trả các chi phí phát sinh khi thực hiện dầu tư. HỌ cũng có thể nhận được những khoản tiền thưởng nhất định khi hoàn thành tết nhiệm vụ. Trong khi quản lý tài sản cho khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng ký kết. Hợp đồng này được thảo ra trên các nguyên tắc của luật dân sự và tuân thủ các quy định của ngành chứng khoán. Trong đó, công ty

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/06/2023