Như tiếng vượn ru con nơi đầu núi
Tiếng hát hay của các nàng không chỉ khiến hội thêm đông hơn mà quan trọng nhất là tiếng hát ấy sẽ là như một phương tiện chính để các nàng thay bà con khắp bản giãi bày tâm tư với Mẹ Trăng, và chính họ lại thay Mẹ Trăng truyện trò với nhân dân bằng chính tiếng ca của mình. Trách nhiệm của Nàng Trăng không phải là một mà giờ đây nhân lên bội phần. Để thực hiện được nhiệm vụ lớn lao như vậy, các nàng tiên không chỉ giỏi hát múa mà còn cần rất nhiều ở sự khéo léo, linh hoạt trong ứng xử để mời cho được Mẹ Trăng xuống vui hội, giúp trần gian. Còn khi hóa thân vào Mẹ Trăng, lúc ấy lại đòi hỏi ở nàng một trái tim biết lắng nghe để đồng cảm, xẻ chia với nỗi niềm của nhân dân.
Sau khi Gường và Sở đã nhập hồn Nàng Trăng, hai cô gái bắt đầu hát mời, nài Mẹ Trăng trên chốn Quảng Hàm về trần gian dự hội. Họ đã gửi trọn tấm chân tình của mình vào giọng ca ngọt ngào bao tha thiết. Trước Mẹ Trăng - thần linh, Nàng Hai đã thể hiện sự khéo léo của mình ẩn sau hành động tôn kính:
Tay nâng lên đến trán con van Kéo tay lên ngang thân con lạy.
Vì niềm tin mà người trần gian đã gửi gắm mà nàng đã trổ hết mọi tài ăn nói để thuyết phục các Mẹ. Hành động tay nâng lên trán kính cẩn, trình thưa rõ ràng, lời mời gọi chân thành của Nàng Hai đối với các Mẹ khiến các Mẹ dù có khó tính đến đâu cũng phải hài lòng trước tài ứng đối của nàng, đồng ý xuống trần gian dự hội. Nàng Hai quả thực đã khiến nhân dân cảm phục bởi trước các Mẹ Trăng thì kính cẩn, bên các Mẹ thì chăm sóc tận tình:
Mởi thâng Nàng kén xiêm Mởi thâng Nàng kén mở
Mởi Mẻ cỏi khay hóm au sửa phít
Có thể bạn quan tâm!
- Ý Nghĩa Nhân Văn Trong Những Khúc Hát Lễ Hội Nàng Hai Của Người Tày Ở Thạch An - Cao Bằng
- Tình Yêu Trăng Giúp Cho Tâm Hồn Của Người Dân Tày Ở Thạch An - Cao Bằng Thêm Đẹp
- Những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An – Cao Bằng - 9
- Nghệ Thuật Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ
- Những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An – Cao Bằng - 12
- Sự Vận Dụng Linh Hoạt, Sáng Tạo Ngôn Ngữ Dân Giantày
Xem toàn bộ 164 trang tài liệu này.
Dịch:
Cỏi khay mỉt au sửa re Mản phít Mẻ oóc chê Mản re Mẻ oóc lậu Sửa phít oóc pảt pha Sửa re oóc pảt sảo
Sửa phít oóc pảt sảo hứ đo Sửa re oóc pảt kho hứ piọm
Mời Mẹ xem quần áo đẹp Mời Mẹ xem quần áo xinh Mời mẹ hãy mở hòm áo đẹp Mời Mẹ hãy mở hòm áo xinh. Màn đẹp Mẹ chớ chê
Áo đẹp Nàng chớ quở Quần áo đẹp vắt đầy vách Quần áo đẹp vắt đầy sào
Quần áo đẹp vắt đầy vách không hết Quần áo xinh vắt đầt vách không xuể.
Lễ hội Nàng Hai là lễ hội của toàn dân bản, bao nhiêu người đi dự hội
là bấy nhiêu tâm tình. Bà con đi dự hội không chỉ đơn thuần là để giải trí, gặp bạn bè giao lưu mà quan trọng hơn là để gặp Nàng Hai - người gieo vào trong lòng họ niền tin và yêu cuộc sống.
Lắng nghe câu hát Lượn cất lên từ làn môi xinh của Nàng Hai, ai cũng nhận ra tài ứng đáp thông minh, linh hoạt với ý đẹp lời hay của nàng:
Khỏi dú cung Quảng Hàm Pỉ noọng Mẻ Hằng Nga
Mẻ bjóoc gụm gằng mảu mùa đây
Dịch:
Plân đét tlồng kim ngần tắm thúc Mươi moóc tlồng kin ngần khân đeng Khẩu mạc tlồng đao đí nưa bân
Mò vài pất cáy tlồng mì têm lảng.
Tôi của người cung Hàm cung Quảng Tôi hậu duệ của Mẹ Hằng Nga
Mẹ Hoa dặn mùa màng tươi tốt lắm
Nắng vàng, mưa bạc như thoi rơi trên khung cửi Gió sương như kim tuyến gắn khăn hồng
Thóc vàng như sao trời tháng chín
Gia súc đầt đàn như dòng chảy sông Ngân.
Cuộc sống con người nơi trần gian biết bao khó khăn về vật chất và bao
lo lắng về tinh thần. Như thấu hiểu được nỗi lòng đó, Nàng Hai đã khỏa lấp lòng họ bằng những câu hát rất đẹp mà đầy ý nghĩa. Trước tài năng và tấm lòng cao đẹp của nàng, ai không khỏi không yêu mến và kính phục. Hội càng về đêm càng thêm đông, xung quanh sân khấu Nàng Hai càng thêm rộn ràng. Trăng đêm tháng ba tỏa ánh bạc xuống sân hội khiến khuôn mặt Nàng Hai càng thêm rạng ngời.
Người ta bảo trăng đêm lạnh, trăng đêm xuân rừng núi càng lạnh hơn. Thế nhưng, trong đêm hội xuân này, không khí náo nức và tình cảm thân thiết giữa người với người như xua tan hết giá lạnh, chỉ còn lại ánh trăng huyền diệu ngoài kia đang sưởi ấm lòng người. Trong đêm trăng lung linh, những rào cản về địa vị, hoàn cảnh... đều được cởi bỏ. Dù là ai dưới đám hội kia cũng có thể giãi bày cùng Nàng Hai những điều thầm kín nhất trong cuộc sống của mình. Bao nhiêu người với hạnh phúc dở dang, nay cũng tìm đến nàng để xẻ chia cho vơi bớt nỗi buồn trong lòng. Trong muôn ngàn thanh âm
của lòng người, có câu hát khiến những ai biết yêu, biết thương, biết san xẻ với đồng loại cũng không khỏi chạnh lòng:
Cầu hạnh phúc tlẻo mẻn tắc chang pế Khươi noọng ngám nhỉ hả mẻn thai Tả noọng dú trần gian khôm khỏ
Pi bươn gảng vằn gảng ké pây
Dịch:
Cầu hạnh phúc gẫy gục giữa sông Chồng em bỗng chết non về trời Bỏ em giữa thác đời gầm rú Nhan sắc em ngày càng mỏi mòn.
Xưa kia, nhất là ở miền núi, quan niệm tam tòng của lễ giáo phong kiến
thật có sức mạnh vô hình không sao kiểm soát được. Con gái khi còn ở cùng gia đình, mọi việc đều phải nghe theo cha mẹ nên khi nói chuyện lấy chồng, trên cửa miệng của người Tày có câu “Pỏ mẻ tẳt búng tầư, lủc đảy nẳng búng tlỷ” (cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy). Và khi đã về nhà chồng, họ trở thanh con ma cùa nhà đấy, dòng họ đấy. Chẳng may, chồng họ qua đời, những người phụ nữ kia vẫn phải hết lòng duy nhất thờ phụng chồng.
Người thiếu phụ kia đang độ tuổi xuân, lòng càng thấm thía nỗi cô quạnh của cảnh góa bụa. Cảm nhận được sâu sắc bi kịch tinh thần của góa phụ, Nàng Hai lúc này không còn là hiện thân của thánh thần nữa mà bỗng gần gũi như một người mẹ, người chị vỗ về an ủi, xẻ chia và thắp lên trong lòng người đàn bà bất hạnh ấy một ngọn lửa niềm tin và tình yêu cuộc đời:
Noọng lưởc au muối đây muối mảc Se mảu mấư đảy ún slim ki
Dịch:
Em hãy chọn hạt mẩy hạt đầy
Gieo vụ mới cho khuây lòng dạ...
Tấm lòng nhân ái, vị tha, cao thượng là một phẩm chất cao đẹp vốn có trong mỗi con người Tày. Môi trường sống hiền hoà, quan hệ giữa người với người trong cộng đồng luôn trọng nghĩa tình, ưa điều thịên, lòng nhân ái, bao dung... luôn luôn có điều kiện để phát huy. Trong khúc hát Lượn Hai, nét đẹp tâm hồn của nhân dân Tày được thể hiện một cách chân thực và cảm động. Câu Lượn bình dị nhưng chan chứa biết tình thương, sự đồng cảm đó là lời của nhân dân lao động Tày dành cho người góa phụ. Không chỉ có vậy họ còn khích lệ người phụ nữ bất hạnh kia hãy dũng cảm đứng vững giữa cuộc đời, hãy tự tin đi tìm và lựa chọn hạnh phúc để xây đắp cuộc đời mới. Biết trân trọng người phụ nữ, gieo vào lòng người niềm tin, đó là biểu hiện của tâm hồn nhân ái, đáng trân trọng trong mỗi con người Tày nói chung và trong người thiếu nữ Tày nói riêng.
Trong xã hội cũ, tư tưởng trọng nam khinh nữ đè nặng lên mỗi nếp nhà, chòm xóm. Thời bấy giờ, người phụ nữ bị coi rẻ. Biết bao câu ca dao xưa cất lên như lời oán thán đáng thương của người phụ nữ:
Chàng ơi giận thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
Vậy mà ở vùng núi Cao Bằng mờ sương ẩn dưới những cánh rừng đại ngàn kia, người Tày lại vẫn rất trân trọng và ngưỡng mộ vẻ đẹp của người phụ nữ mà nhất là người thiếu nữ. Vẻ đẹp đó được nhân dân cụ thể hoá, thần thánh hóa qua nhân vật Nàng Hai trong lễ hội mang tên nàng. Vẻ đẹp đó sẽ sống mãi trong kí ức của đồng bào.Quả đây là một tư tưởng tiến bộ vượt lên trước thời đại và rất đáng trân trọng.
Tôi bỗng nhớ đến câu nói của nhà thơ Xuân Diệu trong lời dẫn vào bài thơ “Vội vàng”: Cuộc sống xung quanh ta là một thiên đường - rất đẹp - đẹp nhất là tuổi trẻ và tình yêu. Thước đo của cái đẹp chính là con người - con
người trong tuổi trẻ, tình yêu và mĩ nhân... Nhân dân miền núi có thể làm sao nói những lời thơ hoa mĩ như thi sĩ Xuân Diệu kia, mà họ lại sống cách xa nhau bao thế kỷ. Cho dù họ là những nhà thơ dân gian và nhà Thơ mới, tuy họ sống ở hai thời đại khác nhau nhưng họ đã giống nhau ở một điểm nhìn nghệ thuật: tôn vinh cái đẹp mà con người mới là thước đo của cái đẹp và đẹp nhất là mĩ nữ đang độ xuân sắc, xuân thì.
Bằng niềm tin và tình cảm yêu mến của nhân dân dành cho người thiếu nữ Tày, hình tượng nhân vật Nàng Hai trở thành mẫu hình cho những phẩm chất cao đẹp nhất của người dân Tày: lòng nhân ái, tâm hồn tinh tế, thông minh, tài hoa. Nàng hiện lên với vẻ đẹp hoàn mĩ nhưng không ồn ào mà vô cùng giản dị. Người Tày Cao Bằng chọn thiếu nữ đóng vai Nàng Hai trong lễ hội cầu mùa, ngoài ý nghĩa thể hiện tục thờ mẹ còn thể hiện giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc, đó là tôn vinh vẻ đẹp của tuổi trẻ, nhất là vẻ đẹp của người thiếu nữ Tày. Tuy Nàng Hai là người không có thực song thông qua hình tượng nhân vật này, nhân dân Tày như muốn gửi gắm khát vọng hướng tới vẻ đẹp hoàn mĩ trong mỗi con người. Khát vọng được vươn lên để hoàn thiện mình trong tâm hồn và cuộc sống chính là giá trị nhân văn trong khúc hát Lượn Hai.
2.3.4. Hướng đến những khúc hát lễ hội Nàng Hai, con người như được thanh lọc tâm hồn
Trong tiết tháng ba âm lịch, khí trời ấm áp hơn nhưng cái lạnh chưa hẳn đã dứt, lộc biếc đã trổ biếc khắp các sườn non, hoa gạo thắp đèn lồng nhung đỏ thắm trên những cành bạc… lòng người lại náo nức đón hội Hai. Nhà nghiên cứu văn hóa Triều Ân cũng nhận xét: “những khúc hát trong lễ hội và hát hội đã gieo vào tâm hồn người đi dự hội một tình cảm trong sáng, lành mạnh, một niềm lạc quan tin tưởng để sau đó bắt tay vào vụ sản xuất”[1, Tr. 14].
Chẳng phải năm nào hội cũng được tổ chức. Phải hai hay ba năm mới diễn ra một lần. Thế nên sao mọi người chẳng mong cho xuân đến mau, cho bản làng mở hội Nàng Hai. Đến lúc ấy, ắt hẳn ai cũng tạm gác công việc thường ngày lại để đến dự hội, bởi nếu không đến hội chẳng phải đã lỡ một cái hẹn với chính lòng mình sao? Tiếng Lượn Hai dập dìu qua những nương lúa nương ngô từ xa vọng lại, lòng người không khỏi bâng khuâng, xao xuyến:
Câu hát Lượn vấn vương Khách xa không nỡ bước.
Có thể đó chỉ là phút thăng hoa ngắn ngủi chợt đến nhưng tiếng hát cất lên trong mùa xuân ấy như khiến mỗi con người tạm quên đi những lo toan thường nhật, lòng chợt thấy thanh thản đến lạ kỳ.
Hoà mình vào ngày hội ta chợt nhận ra lễ hội NàngTrăng với khúc hát Lượn Hai như một bài ca say mê của tâm hồn con người. Cái không khí uy linh của lễ cầu trăng, đón trăng như cung trầm của bản nhạc. Trầm đấy mà sâu lắng đấy. Phút trầm linh sâu lắng đáng trân trọng ấy cho con người suy ngẫm về những điều mình đã làm, để hướng về điều thiện. Còn cái sôi nổi nhộn nhịp của hội như cung thanh của bài ca, nó hối thúc người nghe, giục giã lòng họ sống nhiệt thành hơn và có ý nghĩa hơn.
Người Tày ở Thạch An rất trân trọng tình cảm, sống ân nghĩa, thủy chung. Cuộc sống vật chất đời thường với nhiều bộn bề lo toan nhưng không làm họ quên đi những giá trị tinh thần. Có thể nói rằng, càng trong những lúc còn nhiều khó khăn ấy, tình cảm cộng đồng càng được thêm thắt và bện chặt hơn. Tình cảm nặng sâu là vậy nhưng với đồng bào Tày, cách thể hiện nó không phải bộc lộ một cách thẳng tuột, vồ vập mà ngược lại, rất kín đáo, tế nhị và nhân văn. Lễ hội Nàng Hai mà trong đó mạch máu hồng của nó là những khúc Lượn Hai đã có vai trò cố kết cộng đồng người, thắt chặt hơn tình cảm giữa con người với con người. Họ tìm đến hội để trao gửi tâm tình để sau
đó giá trị con người được nâng lên cao hơn, tính thân thiện, nhân văn trong con người càng được mọi người đề cao, trân trọng và phát huy.
“Đến với lễ hội đầu xuân, con người với con người không chỉ gắn bó thân thiết với nhau bằng tình làng nghĩa xóm hay huyết thống mà còn bởi một sợi dây vô hình là tâm linh” [38, Tr. 148]. Dù là ai, ở đâu hay ở địa vị nào, bước chân đến hội Nàng Hai, trong bất kì ai cũng một lòng thành tâm tôn kính Nàng Hai - người mà họ tôn vinh là vị thần bảo vệ sản xuất và cuộc sống cho nhân gian. Lời hát cầu Mẹ Trăng đâu phải của riêng một ai trong số những người dự hội, mà là tiếng lòng chung của tất cả mọi người:
Út Nọi mà bản noọng đây ròi
Út Nọi mà bản noọng bình an tứ quí Gằm xui xẻo pây quây
Gằm rại pây khoái khoái
Dịch:
Út Nọi đến bản làng tốt đẹp Út Nọi về bản làng bình yên Điềm lành luôn mau đến Điểm dở luôn mau đi.
Lời ca ấy như một liều thuốc tinh thần, động viên an ủi nhân dân, khiến
lòng họ thấy bình yên hơn.
Con người đến hội Nàng Hai với biết bao mong chờ. Hội tan rồi mà lòng người còn bao điều cứ vấn vương. Có ai trong nhóm bạn trẻ còn mãi bâng khuâng trong lòng một câu hát Lượn, còn nhớ mãi ánh mắt tròn xinh của cô thôn nữ, để rồi lòng hẹn lòng sang năm dự hội cầu mùa gặp em. Trong nhịp bước lên đèo về bản, có lẽ cô gái Tày nào đó vẫn không quên hình ảnh Nàng Hai với sắc áo sặc sỡ, lung linh, thân hình tươi trẻ, lời Lượn Hai vừa hay vừa khéo khiến ai cũng thỏa mong ước. Lòng thiếu nữ cứ ước ao sống đẹp hơn,