+ Nghề nghiệp: Nghề nghiệp có ảnh hưởng nhất định đến loại sản phẩm được chọn. Doanh nghiệp cần cố gắng nhận biết khách hàng theo nhóm nghề nghiệp khác nhau và quan tâm thích đáng đến sự khác biệt nhu cầu của các nhóm. Thậm chí doanh nghiệp có thể chuyên môn hóa việc sản xuất những sản phẩm cho một nhóm nghề nghiệp nào đó.
+ Hoàn cảnh kinh tế: Khả năng mua sắm thực tế của một người phụ thuộc vào hai yếu tố: khả năng tài chính của họ và hệ thống giá cả hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy hoàn cảnh kinh tế bao gồm: thu nhập, phần tiết kiệm, nợ và khả năng vay mượn, quan điểm về chi tiêu- tích lũy… có ảnh hưởng rất lớn đến cách thức tiêu dùng của mỗi người. Các nhà kinh tế học nhận thấy sự nhạy cảm về cầu của các loại hàng hóa khác nhau phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập thực tế – thu nhập danh nghĩa tính theo chỉ số giá tiêu dùng - của họ. Điều này đòi hỏi các công ty phải thường xuyên theo dõi những biến động hoàn cảnh kinh tế của các cá nhân và những biến động giá cả, lãi suất, lạm phát để điều chỉnh chiến lược kinh doanh cho phù hợp.
+ Lối sống: Lối sống của một người thể hiện qua hành động, sự quan tâm và quan điểm của người đó về môi trường xung quanh. Những người có cùng xuất thân từ một nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội, cùng nghề nghiệp và hoàn cảnh gia đình có thể có những lối sống hoàn toàn khác nhau. Lối sống phác họa một cách đầy đủ và sinh động nhất chân dung một con người. Sự lựa chọn hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng thể hiện lối sống của họ. Các nhà kinh doanh cần tìm kiếm những mối quan hệ giữa sản phẩm của mình và các nhóm theo cùng lối sống.
+ Cá tính và tự ý thức: Đây là yếu tố về những đặc tính tâm lý nổi bật của mỗi người tạo ra thế ứng xử có tính ổn định và nhất quán đối với môi trường xung quanh như tính tự tin, tính thận trọng, tính năng động, tính cởi mở…Cá tính và ý thức về bản thân có mối quan hệ chặt chẽ với thói quen bộc lộ trong hành vi mua sắm.
- Các yếu tố tâm lý: Các yếu tố tâm lý gồm các yếu tố động cơ, nhận thức, niềm tin, thái độ.
+ Động cơ: là nhu cầu đã có đủ sức mạnh để thôi thúc người ta hành động [2,210]. Cơ sở hình thành động cơ chính là nhu cầu.
+ Nhận thức: động cơ thúc đẩy con người hành động, song hành động con người diễn ra phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của họ về môi trường xung quanh. Đó là một quá trình thông qua đó cá thể tuyển chọn, tổ chức và giải thích thông tin đầu vào để tạo ra một bức tranh có ý nghĩa về thế giới xung quanh [2,212].
+ Sự hiểu biết: Khi con người hành động họ cũng đồng thời lĩnh hội được tri thức; tri thức mô tả những thay đổi trong hành vi của cá thể bắt nguồn từ kinh nghiệm [2,213]. Đó là kết quả của sự tương tác giữa động cơ, tác nhân kích thích (hàng hóa cụ thể), những gợi ý, sự đáp lại và củng cố (phản ứng người mua khi sử dụng hàng hóa so với những mong đợi của họ về hàng hóa đó). Vậy doanh nghiệp có thể tạo ra nhu cầu với sản phẩm bằng cách gắn liền nó với những tác nhân kích thích mạnh mẽ, những gợi ý tốt và đảm bảo sự củng cố tích cực.
+ Niềm tin và thái độ: Thông qua hoạt động và tri thức, người ta có được niềm tin và thái độ. Những yếu tố này lại có ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của con người. Niềm tin là một ý nghĩ khẳng định của con người về một sự việc nào đó [2,214]. Thái độ là sự đánh giá những tình cảm và là những xu hướng hành động có tính chất tốt hay xấu về một khách thể nào đó. Niềm tin và thái độ dẫn con người đến quyết định thích hay không thích một đối tượng nào đó, đến với nó hay xa rời nó. Những yếu tố này rất khó thay đổi, đòi hỏi nhận thức lâu dài vì nó dẫn dắt họ hành động theo một thói quen khá bền vững mà người ta có thể tiết kiệm được công sức và sự suy nghĩ khi hành động.
2.2.2. Khách thể tiêu dùng
Khách thể tiêu dùng chính là các sản phẩm phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của người tiêu dùng, bao gồm các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Sản phẩm tiêu dùng được chia thành các nhóm sau: ăn uống, làm đẹp, nhà ở, dụng cụ gia đình, đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe và vui chơi giải trí.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa tiêu dùng
Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa tiêu dùng rất phức tạp và đa dạng, bao gồm những yếu tố cơ bản là: môi trường tự nhiên, môi trường nhân khẩu học, môi trường kinh tế, môi trường chính trị – luật pháp và môi trường công nghệ.
2.3.1. Môi trường tự nhiên: Mỗi quốc gia có vị trí địa lý khác nhau, từ đó dẫn đến những khác biệt về tự nhiên như khí hậu, địa hình tài nguyên; nhu cầu và tập quán tiêu dùng của các quốc gia, dân tộc do vậy là khác nhau.
2.3.2. Môi trường nhân khẩu học
Môi trường nhân khẩu học bao gồm các yếu tố sau:
Quy mô dân số: cho phép chúng ta xác định được dung lượng thị trường, độ tuổi trung bình, kết cấu dân số già hay trẻ và tầm vóc, kích cỡ của người tiêu dùng ở một quốc gia.
Quy mô gia đình: ảnh hưởng trực tiếp tới lượng sản phẩm dùng cho một gia đình. Quy mô gia đình là khác nhau ở mỗi quốc gia do ảnh hưởng của truyền thống văn hóa.
Vấn đề về chủng tộc: các quốc gia có thể là quốc gia đa chủng tộc như Hoa Kỳ hay một chủng tộc như Việt Nam, do vậy mà nhu cầu của người tiêu dùng sẽ phong phú hay đa dạng khác nhau.
2.3.3. Môi trường kinh tế
Cơ cấu kinh tế của một nước quyết định rất lớn đến nhu cầu về tiêu dùng của người dân. Trên thế giới có bốn loại hình cơ cấu kinh tế:
Nhóm các nước nông nghiệp kém phát triển: đây là các nước có nền kinh tế tự nhiên, tuyệt đại bộ phận dân cư làm nghề sản xuất nông nghiệp đơn giản và tiêu dùng hầu hết các nông sản họ làm ra, phần thừa mới mang đi đổi lấy hàng đơn giản. Có thể nhận thấy đây là một thị trường khá màu mỡ cho kinh doanh những loại hàng hóa thiếu mà chất lượng đòi hỏi không cao.
Nhóm các nước xuất khẩu nguyên liệu thô: là những nước giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng lại nghèo về nhiều mặt. Thu nhập của họ chủ yếu là nhờ vào xuất khẩu những nguyên liệu thô và nhập khẩu hàng hóa để tiêu dùng. Đây cũng là thị trường mục tiêu cần chú ý với các sản phẩm trong nước không tự sản xuất được như hàng tiêu dùng, máy móc thiết bị…
Nhóm các nước đang phát triển: ở những nước này, quá trình công nghiệp hóa đã tạo ra một tầng lớp trung và thượng lưu. Họ có nhu cầu với các hàng hóa từ các nước phát triển, chỉ có thể đáp ứng bằng hàng hóa nhập khẩu.
Nhóm các nước công nghiệp phát triển: đây là thị trường tiêu thụ giàu có cho mọi chủng loại hàng hóa từ sản phẩm truyền thống mang đậm tính văn hóa như đồ gốm sứ, mỹ nghệ hay những sản phẩm công nghệ cao.
Trong phạm vi một quốc gia cần quan tâm tới các chỉ tiêu như tổng sản phẩm quốc dân GNP, tổng sản phẩm quốc nội GDP, thu nhập bình quân trên đầu người, chỉ số xếp hạng kinh tế của một quốc gia, kim ngạch và cơ cấu xuất nhập khẩu…để có quyết định kinh doanh phù hợp.
2.3.4. Môi trường chính trị – luật pháp
Môi trường chính trị có ảnh hưởng một phần đến tâm lý tiêu dùng. Tình hình chính trị ổn định thì người dân sẽ tăng chi tiêu và giảm tiết kiệm, và ngược lại chính trị bất ổn buộc người dân giảm chi tiêu, tăng tiết kiệm và mua các sản phẩm tự vệ, bảo hiểm nhiều hơn.
Môi trường chính trị còn bao gồm cả môi trường luật pháp. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, chặt chẽ và có lợi cho người dân là một yếu tố góp phần làm tăng đầu tư, sản xuất cũng như tiêu dùng.
2.3.5. Môi trường công nghệ
Công nghệ đang phát triển mạnh mẽ góp phần làm vòng đời sản phẩm ngắn lại. Các sản phẩm công nghệ cao lại thường bị lỗi thời nhanh chóng. Do vậy nhu cầu và quan điểm tiêu dùng của con người trong môi trường công nghệ cao, đặc biệt với các quốc gia có nền công nghệ phát triển luôn thay đổi. Hoạt động kinh doanh phải thay đổi theo để thích ứng với sự thay đổi đó. Quá trình chuyển giao công nghệ từ những nước phát triển sang các nước kém phát triển cũng sẽ tạo ra sự thay đổi về tiêu dùng tại các nước này.
II. KHÁI QUÁT VỀ SIÊU THỊ
1. Khái niệm chung về siêu thị
Siêu thị
Siêu thị là từ dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài : “supermarket” (tiếng Anh) hay “supermarché” (tiếng Pháp), trong đó “super” có nghĩa là “siêu” và “market” là chợ. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị tùy theo từng quốc gia, chúng ta có thể tham khảo một số định nghĩa sau:
Nước Mỹ coi siêu thị là “cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa” [4,40].
Còn ở Pháp, “siêu thị là cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400 đến 2500 m2 chủ yếu bán hàng thực phẩm và đồ gia dụng” [13,20].
Từ điển bách khoa trực tuyến Wikipedia định nghĩa về siêu thị như sau: “Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ thường được xây dựng trên diện tích lớn, gần khu dân cư để tiện lợi cho khách hàng và đảm bảo doanh thu. Hàng hóa ở
đây rất đa dạng và được chọn lọc kĩ hơn so với trong chợ hay cửa hàng tạp phẩm. Quy mô của siêu thị lớn hơn các cửa hàng tạp phẩm (hoặc chợ) và tương đối nhỏ hơn các trung tâm thương mại”[45]
Từ tháng 6/2004 Bộ Thương Mại Việt Nam (nay là Bộ Công Thương) đưa ra định nghĩa chính thức về siêu thị như sau: “Siêu thị là loại cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh, có phương thức tự phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”[12]
1.2. Chuỗi siêu thị
Đây là khái niệm mới xuất hiện gần đây ở Việt Nam, dùng để chỉ tập hợp các siêu thị của một nhà phân phối được đặt ở các địa bàn khác nhau nhưng cùng áp dụng một phương thức kinh doanh thống nhất từ diện mặt hàng, giá cả, phương thức quản lý quầy hàng, gian hàng, trưng bày hàng hóa, biển hiệu và hình thức bên ngoài [13,21].
1.3. Hệ thống siêu thị
Hệ thống siêu thị là mạng lưới tất cả cửa hàng bán lẻ hợp nhất áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ các hàng hóa tiêu dùng phổ biến của người dân, bao gồm siêu thị nhỏ, siêu thị và đại siêu thị [13,21].
Tuy nhiên do sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống phân phối, hiện nay khái niệm siêu thị, chuỗi siêu thị hay hệ thống siêu thị cũng đều muốn nói đến các dạng cửa hàng bán lẻ áp dụng phương thức bán hàng hiện đại.
Tiêu chí phân biệt siêu thị với các loại hình kinh doanh thương mại khác là: phương thức tự phục vụ, diện tích mặt bằng, số lượng mặt hàng tối thiểu và đặc điểm hàng hóa bày bán trong siêu thị là hàng tiêu dùng phổ biến.
2. Phân loại siêu thị
Phân loại siêu thị theo quy mô
Việc phân loại siêu thị theo quy mô được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng và họ dựa trên hai tiêu chí cơ bản để xác định là diện tích mặt bằng và tập hợp hàng hóa của siêu thị. Từ đây có thể phân chia siêu thị ra các loại [13,22]:
- Siêu thị nhỏ (minimart): là cửa hàng bán lẻ nhỏ, chủ yếu bán hàng thực phẩm theo phương thức tự phục vụ, hợp nhất, thường nằm giữa các khu dân cư đô thị (ở Pháp quy định diện tích bán hàng là từ 120 đến dưới 400 m2).
- Siêu thị (supermarket): khái niệm đã nêu ở mục 1.1.
- Đại siêu thị (hypermarket): là các cửa hàng thương mại bán lẻ khối lượng lớn tại một địa điểm, dựa trên nguyên tắc bán hàng tự phục vụ và quy mô lớn hơn rất nhiều so với siêu thị, thường nằm ở ngoại ô thành phố có bãi đỗ xe rộng.
Căn cứ vào quy mô còn liên quan đến tiêu chí khác là vị trí đặt siêu thị. Theo đó siêu thị nhỏ và siêu thị thường được đặt trong khu cân cư đô thị thì đại siêu thị lại thường được đặt ở vùng ngoại vi thành phố.
Ở Việt Nam, trong Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại của Bộ Thương mại, siêu thị được phân chia theo 3 cấp như sau:
Bảng 1: Phân hạng siêu thị theo Quy chế siêu thị hiện hành
Loại hình | Tiêu chuẩn tối thiểu về | ||
Diện tích kinh doanh (m2) | Số lượng tên hàng | ||
Hạng I | Siêu thị kinh doanh tổng hợp | 5.000 | 20.000 |
Siêu thị chuyên doanh | 1.000 | 2.000 | |
Hạng II | Siêu thị kinh doanh tổng hợp | 2.000 | 10.000 |
Siêu thị chuyên doanh | 500 | 1.000 | |
Hạng III | Siêu thị kinh doanh tổng hợp | 500 | 4000 |
Siêu thị chuyên doanh | 250 | 500 |
Có thể bạn quan tâm!
- Những khác biệt trong văn hóa tiêu dùng của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp cho các siêu thị Việt Nam - 1
- Những khác biệt trong văn hóa tiêu dùng của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp cho các siêu thị Việt Nam - 2
- Siêu Thị Trong Hệ Thống Phân Phối Hàng Tiêu Dùng Hiện Đại
- Đặc Điểm Văn Hóa Tiêu Dùng Của Hà Nội Và Của Tp. Hồ Chí Minh
- So Sánh Văn Hóa Tiêu Dùng Của Hà Nội Và Của Tp.hồ Chí Minh
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Nguồn: Siêu thị, phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam, Bộ Thương mại, chủ biên Nguyễn Thị Nhiễu (2006), trang 93.
Phân loại siêu thị theo hàng hóa kinh doanh
Hàng hóa kinh doanh trong siêu thị theo truyền thống là hàng thực phẩm. Tuy nhiên, nhu cầu con người ngày càng đa dạng nên siêu thị ngày nay phục vụ cho tiêu dùng phổ biến của người dân từ thực phẩm đến quần áo, đồ gia dụng…dù thực phẩm vẫn là mặt hàng kinh doanh quan trọng nhất của các siêu thị. Như vậy có thể chia thành [13,26]:
- Siêu thị tổng hợp: là siêu thị bán nhiều loại hàng hóa cho nhiều loại khách hàng, ở đó người tiêu dùng có thể mua hầu như tất cả mọi loại hàng hóa phục vụ cho sinh hoạt của mình.
- Siêu thị chuyên doanh: là các cửa hàng chuyên doanh áp dụng phương thức bán hàng tự chọn như các cửa hàng chuyên bán quần áo, giày dép, đồ nội thất, vật liệu xây dựng… Siêu thị chuyên doanh cung cấp tập hợp hàng hóa hẹp nhưng sâu.
Phân loại theo tính chất thật ảo của siêu thị
Những ứng dụng của công nghệ, đặc biệt là của Internet vào kinh doanh đã tạo ra một loại hình siêu thị mới là siêu thị kinh doanh trên mạng – siêu thị điện tử, siêu thị ảo. Theo tiêu chí thật ảo siêu thị được chia thành:
- Siêu thị truyền thống: là các siêu thị có mặt bằng cửa hàng, quầy hàng, hàng hóa… thực sự, người mua hàng muốn mua hàng phải đi đến các cửa hàng, tiếp xúc và chọn lựa hàng hóa thực sự.
- Siêu thị điện tử: là siêu thị được thiết lập trên một website, không có quầy hàng thực sự mà tất cả đều là ảo. Khách hàng chỉ cần nối mạng, truy cập vào một website siêu thị điện tử là có thể xem hàng hóa và các thông tin liên quan, so sánh, lựa chọn và quyết định mua, tất cả quá trình mua hàng chỉ là những thao tác đơn giản trên máy tính.
3. Vị trí, vai trò của siêu thị trong hệ thống phân phối hiện đại