nền kinh tế lớn, trong khi các nước giàu vẫn khó khăn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng sản xuất đến các quốc gia đang phát triển.
Giai đoạn này cũng chứng kiến hàng loạt khó khăn và thách thức mà lĩnh vực tài chính toàn cầu phải đối mặt. Cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ đã gia tốc thành khủng hoảng toàn cầu và “bóng đen của đám mây khủng hoảng” đang bao phủ lên bức tranh kinh tế thế giới. Khủng hoảng tài chính cũng đặt ra bài toán khó cho các NHTƯ nhiều nước phải thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và giảm thâm hụt ngân sách.
2. Tình hình kinh tế ở một số quốc gia và khu vực
2.1. Kinh tế Mỹ
Nền kinh tế số một thế giới đã trải qua một giai đoạn được đánh giá là đen tối nhất trong nhiều thập niên qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ mức 2,8% năm 2006 giảm còn 2,0% năm 2007 và năm 2008 chỉ đạt 1,1% [56]. Trong năm 2007, GDP của Mỹ đạt gần 13.900 tỷ USD, tăng 886 tỷ
USD so với năm 2006 (13.014 tỷ USD). Xuất khẩu tăng 12,3%, đạt 1,48 tỷ USD, nhập khẩu tăng 5,6%, đạt 2,13 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách giảm mạnh, chỉ ở mức 163 tỷ USD so với mức 248,2 tỷ USD năm 2006 và chỉ xấp xỉ 1/2 năm 2005 (318 tỷ USD). Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, kinh tế Mỹ năm 2007 chỉ tăng trưởng 0,6% vào quý I, phục hồi vào quý II (3,8%), quý III (4,9%) và tụt dốc mạnh vào quý IV (0,6%) [51].
Năm 2008, sự giảm tốc mạnh của nền kinh tế đã gia tốc thành cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ thời kì đại suy thoái 1929 – 1933. Tình trạng rối loạn trong thị trường tín dụng đã dẫn tới chao đảo trên các thị trường chứng khoán ở Mỹ, chỉ số Down Jones liên tục giảm điểm. Chính phủ Liên bang đã phải chi hàng tỷ USD (700 tỷ USD tính đến tháng 12/2008) và hàng loạt gói cứu trợ để giải cứu nền kinh tế “trong cơn hấp hối”. Đầu năm đến tháng 9/2008 Fed đã 8 lần cắt giảm lãi suất, lãi suất cơ bản từ mức 5,25% chỉ còn 0,25% nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng cá nhân. Chi tiêu dùng và hoạt
động xuất nhập khẩu đều giảm mạnh, quý IV xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 23,6%, do chi tiêu dùng giảm mạnh nên nhập khẩu cũng giảm tới 17,5%. Tổng số các vụ phá sản tăng 30% (năm tài khóa 2007 là 775.344 vụ) lên mức 1,04 triệu vụ và số lượng doanh nghiệp phá sản tăng 49% trong năm tài khóa 2008. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp tính tới 6/12/2008 đã lên tới 6,7%, mức cao nhất trong vòng 15 năm qua [27]. Lạm phát năm 2007 ở mức thấp: 2,8%, giảm so với mức 3,24% năm 2006 tuy nhiên đã tăng trở lại vào năm 2008: 3,8% khi nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng [59].
Bảng 3: Tỷ lệ lạm phát ở Mỹ năm 2007 và 2008
T1 | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 | T8 | T9 | T10 | T11 | T12 | TB | |
2007 | 2,1 | 2,4 | 2,8 | 2,6 | 2,7 | 2,7 | 2,4 | 2,0 | 2,8 | 3,5 | 4,3 | 4,1 | 2,8 |
2008 | 4,3 | 4,0 | 4,0 | 3,9 | 4,2 | 5,0 | 5,6 | 5,4 | 4,9 | 3,7 | 1,1 | 0,1 | 3,8 |
Có thể bạn quan tâm!
- Những biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008 và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam - 1
- Những biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008 và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam - 2
- Giá Dầu Thế Giới Tính Từ Ngày 3/12/2007 Đến Ngày 15/12/2008 Dựa Trên Giá Dầu Kỳ Hạn Đóng Cửa Tại Thị Trường New York
- Đồ Thị Diễn Biến Đồng Eur So Với 1 Jpy Năm 2008
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Nguồn: www.usinflationcalculator.com [59]
2.2. Kinh tế Nhật Bản
Nhật Bản - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tăng trưởng chậm lại trong năm 2007 nhưng vẫn tiếp tục tạo nên pha tăng trưởng kinh tế dài nhất của nước này kể từ sau thế chiến lần thứ II, với mức tăng trưởng 2,1% (năm 2006 là 2,4%). Do nền kinh tế chìm vào suy thoái nên năm 2008 Nhật Bản đạt mức tăng trưởng âm: - 0,3%, một mức sụt giảm kỉ lục [56].
Theo số liệu sơ bộ do văn phòng nội các Nhật Bản công bố, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong quý IV/2007 đã đạt mức tăng trưởng 3,7%, sau khi tăng 1,1% trong quý III, chủ yếu nhờ đầu tư doanh nghiệp tăng mạnh ở mức 2,9% và xuất khẩu ròng lớn do nhu cầu rất mạnh từ Châu Á và Châu Âu. Chi tiêu tiêu dùng, chiếm khoảng 55% tổng sản phẩm trong nước của Nhật Bản, tăng 0,2%. Trong cùng kỳ, xuất khẩu và nhập khẩu của Nhật Bản tăng lần
lượt 2,9% và 0,5% [47].
Ngày 17/11/ 2008 Nhật Bản chính thức thông báo suy thoái. Xuất khẩu trong tháng 11/2008 đã giảm 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái, do nhu cầu của tiêu dùng thế giới giảm. Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, giảm 25%, mạnh nhất trong vòng 13 năm qua. Ngoài sự sụt giảm nhu cầu tiêu dùng, các nhà xuất khẩu của Nhật Bản còn chịu áp lực từ sự lên giá mạnh của đồng JPY. Từ đầu năm tới nay, đồng tiền này đã tăng giá 25% so với USD, do giới đầu tư Nhật Bản ồ ạt rút vốn về nước vì e ngại khủng hoảng ở các thị trường bên ngoài. Hậu quả của việc khu vực kinh doanh suy thoái là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Bộ Nội vụ Nhật Bản ngày 26/12 cho biết, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 11/2008 là 3,9% (2,56 triệu người), nhiều hơn 0,2% so với tháng 10/2008. Hàng loạt biện pháp kích thích kinh tế được nội các Nhật Bản thông qua, trong đó có chi ngân sách quốc gia
12.000 tỷ Yên (126 tỷ USD), tương đương khoảng 2% GDP. Nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, NHTƯ Nhật Bản (BOJ) đã hạ lãi suất cơ bản đồng Yên của nước này từ mức 0,3% về mức 0,1%. Chính phủ Nhật tuyên bố sẽ mua vào khoảng 20.000 tỷ JPY (223 tỷ USD), trị giá cổ phiếu do các ngân hàng nắm giữ để giúp các ngân hàng có thêm tiền mặt [48].
2.3. Khu vực EU
Năm 2007, khu vực EU vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao: 3,1%, trong đó tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ chốt vẫn được duy trì: Anh tăng trưởng 3,0%, Đức tăng trưởng 2,5%, Pháp: 2,2%, và Ý là 1,5% [56]. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 7%, mức thấp nhất kể từ năm 2001. Đồng EUR lên giá so với USD có ảnh hưởng nhất định tới tình hình xuất khẩu và sản xuất công nghiệp, nhưng tổng cầu nội địa vẫn tăng 2,1%, với mức thặng dư thương mại là 191,4 tỷ USD (năm 2006: 119,4 tỷ USD). Lạm phát cơ bản ở khu vực duy trì ổn định, dưới 2% trong năm 2007 [4].
Khu vực EU đã trải qua một năm 2008 khó khăn với mức tăng trưởng
chỉ đạt 1,3%. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh nhất tới EU khi làn sóng ngân hàng phá sản lan từ Mỹ sang Anh, Bỉ và phần còn lại của khu vực. Mức tăng truởng của các nền kinh tế lớn trong khu vực sụt giảm mạnh: Anh: 0,7%, giảm 2,3% sau 1 năm, Pháp là 0,8%, thậm chí Ý đạt mức tăng trưởng âm: - 0,6% [56]. Khủng hoảng tài chính đã khiến hàng loạt ngân hàng tại khu vực lâm vào cảnh vỡ nợ, các nền kinh tế rơi vào suy thoái như Tây Ban Nha, Đức v.v... Ngày 11 và 12/12/2008 EU đã nhất trí thông qua gói kế hoạch trị giá 200 tỉ EUR (tương đương gần 260 tỉ USD) với các mục tiêu kích thích tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn khối [44].
2.4. Các nền kinh tế đang nổi ở Châu Á
Các nền kinh tế đang nổi ở Châu Á vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2007 và 2008. Nổi bật là ba quốc gia: Trung Quốc, Ấn Độ và Nga.
Năm 2007, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao nhất trong năm năm trở lại đây: 11,9%, Ấn Độ: 9,3 %, Nga tiếp tục tăng trưởng cao với mức tăng trưởng 8,1%, tăng 1,7 % so với năm 2006 (6,4%) [56]. Năm 2007 GDP Trung Quốc đạt 3.280 tỷ NDT (481 tỷ USD), xếp thứ 4 thế giới, tổng kim ngạch thương mại đạt 2,175 ngàn tỷ USD, tăng 25,7 % so với năm 2006; thặng dư thương mại là 262,2 tỷ USD, tăng 47,7% so với năm 2006 (177,5 tỷ USD)[30]. Ấn Độ vẫn tiếp tục mức tăng trưởng kinh tế thần kì với GDP đạt 1.171 tỷ USD. Nga có dự trữ ngoại hối đạt 441,3 tỷ USD (xếp thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản). Trong 9 tháng đầu năm 2007, kim ngạch thương mại Nga đạt 379,6 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm 2006. Theo số liệu của Cục Thống kê Liên bang Nga, tính đến ngày 1/10/2007, FDI vào Nga đạt 197,8 tỷ USD, tăng 52,2% so với năm 2006 [30].
Năm 2008, sự phát triển của kinh tế Trung Quốc vẫn được đánh giá là khả quan nhất với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%, Ấn Độ là 7,3% và Nga chỉ đạt: 6,2% [56]. Tuy nhiên, các nền kinh tế vẫn không thể miễn dịch khỏi
“hệ lụy” của cơn bão khủng hoảng toàn cầu, do động lực chính của tăng trưởng kinh tế là đầu tư và xuất khẩu ròng giảm mạnh vào những tháng cuối năm. Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tháng 11/2008 chỉ đạt 114,99 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ tháng 11/2008 đạt 12,8 tỷ USD, giảm 12,3% so với mức 14,6 tỷ USD của tháng 10/2008 và giảm 6,84% so với mức 13,74 tỷ USD của tháng 9/2008 [14]. Hiện tượng giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống vào quý IV/2008 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, đồng rúp liên tục trượt giá đã đẩy kinh tế Nga rơi vào suy thoái. Áp lực Lạm phát gia tăng do giá các loại hàng hóa tăng cao, lạm phát theo chỉ số giá bán buôn (WPI) tại Ấn Độ ngày 8/11/2008 ở mức 8,9%, lạm phát tại Nga tháng 7/2008 đạt mức 14%, cao gần gấp đôi so với mức 7,5% năm 2007. Chính phủ Ấn Độ đã chi gói cứu trợ trị giá 10 tỷ USD và Chính phủ Trung Quốc đã phải thông qua gói kích cầu trị giá 4.000 tỷ NDT (586 tỷ USD) nhằm kích thích tiêu dùng nội địa và giảm nhẹ sự phụ thuộc của nền kinh tế vào xuất khẩu [14].
II. Những biến động kinh tế thế giới nổi bật giai đoạn 2007 - 2008
1. Biến động giá cả hàng hóa quốc tế
Giai đoạn 2007 - 2008 thế giới đã được chứng kiến sự biến động giá cả khó dự đoán của các loại hàng hóa trên quy mô toàn cầu. Sự bùng nổ, tăng cao kỷ lục và sụt giảm nhanh của giá cả các mặt hàng gần đây lại tiềm ẩn nhiều điểm bất thường so với những chu kỳ tăng giá trước đó, vượt xa mọi dự đoán của các nhà kinh tế.
1.2. Giá thép
Trong đà tăng chung của các loại hàng hóa, giá thép trên thị trường thế giới đã tăng gần gấp đôi kể từ đầu năm trong giai đoạn này. Giá mặt hàng phôi thép, sản phẩm bán thành phẩm để chế tạo thép dài đã tăng hơn 40% trên
sở giao dịch LME thời điểm bắt đầu giao dịch hợp đồng kỳ hạn [14]. Kể từ đầu năm 2007 đến tháng 8 năm 2008 mặt hàng thép trên thị trường thế giới liên tục tăng.
Nguyên nhân đẩy giá thép tăng cao là do giá nguyên liệu thô leo thang và nhu cầu tăng mạnh trên thế giới đặc biệt nhu cầu tiêu thụ thép từ Trung Quốc - nước tiêu thụ thép lớn nhất thế giới liên tục tăng nhanh là nguyên nhân chính khiến giá thép tăng mạnh.
Bảy tháng đầu năm 2008, giá thép trên thị trường thế giới liên tiếp tăng mạnh. Theo số liệu của MEPS, cơ quan chuyên dự báo về thị trường thép của Anh, giá thép thế giới tại Sở giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) cuối tháng 6 năm nay ở mức 1.200 USD/tấn, tăng so với 691 USD/tấn cách đó đúng 1 năm. Giá phôi thép thời điểm này cũng đã tăng hơn 40% và liên tục trong quý III, giữ ở mức trung bình trên 1.000 USD/tấn [32].
Nguyên nhân là do giá nguyên liệu thô như quặng sắt, dầu mỏ, than đá… tăng cao, đẩy chi phí sản xuất lên. Bên cạnh đó, nguồn cung hạn chế do các nhà sản xuất sử dụng chiến thuật giữ lợi nhuận cao bằng cách duy trì nguồn cung thấp trong khi triển vọng nhu cầu giảm. Ngoài ra, hoạt động tái thiết lại các cơ sở hạ tầng bị tàn phá mạnh mẽ sau vụ động đất tại tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc - nước tiêu thụ nhiều thép nhất thế giới – đã ngốn một khối lượng thép lớn cùng với sự suy yếu của đồng USD cũng là những lý do đẩy giá thép tăng cao trên thị trường.
Cuối quý III và Quý IV/2008: Giá thép trên thị trường thế giới giảm mạnh. Giá thép xây dựng, loại thép được giao dịch chủ yếu trong hợp đồng dài hạn, giảm mạnh. Dẫn đầu về sự sụt giảm này là thị trường Châu Á với mức sụt giảm 20% tại Trung Quốc và 12,5% tại Nhật Bản. Giá thép phế liệu, loại thép được dùng làm nguyên liệu thô cũng giảm mạnh, sau khi tăng 80% trong năm 2007. Tại Trung Quốc, nước tiêu thụ thép lớn nhất thế giới, trong tháng 9/2008 giá bình quân các loại sắt, thép là: 5.670 NDT/tấn (khoảng 835
USD/tấn), giảm 5,9% so với tháng 8/2008 [32].
Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do dự trữ thép ở các quốc gia đạt mức cao khiến nhu cầu giảm do giá liên tục tăng ở các tháng trước và kinh tế toàn cầu đi xuống khiến cho các lĩnh vực tiêu thụ nhiều thép như đầu tư, xây dựng, bất động sản và công nghiệp ô tô đều sụt giảm mạnh. Sự sụt giảm của ngành ôtô khi hoạt động kinh doanh của hầu hết các hãng và tập đoàn sản xuất xe hơi hàng đầu thế giới giảm mạnh và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính tiền tệ đã đẩy các “ đại gia xe hơi ” vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản đã tác động lớn đến thị trường và giá thép thế giới.
1.2. Giá gạo
Theo số liệu của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), giá gạo thế giới liên tục tăng cao trong giai đoạn 2007 - 2008. Trung bình, giá gạo tăng 16% trong 10 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006. Giá tăng chủ yếu đối với gạo tấm và gạo thơm. Gạo A1 của Thái Lan đã tăng 23% từ tháng 9 đến tháng 12/07. Các loại gạo khác cũng tăng đáng kể, chẳng hạn như gạo 100% B của Thái tăng 13% lên 376 USD/tấn. Vào thời điểm trước đây 1 năm (tháng 12/06), giá loại gạo này chỉ được chào ở mức 311 USD/tấn [52].
Giá gạo xuất khẩu của Mỹ cũng tăng cao. Các loại gạo hạt dài đều có xu hướng tăng giá sau khi Mỹ tuyên bố sản lượng giảm 3% trong năm 2007. Giá gạo N.2 4% tăng 18% từ 430 USD/tấn tháng 9/2007 lên 506 USD/tấn tháng 12/2007. Giá gạo của Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam đều tăng kể từ tháng 9/2007, phản ánh tác động của các biện pháp hạn chế xuất khẩu trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm mặc dù vào những tháng cuối năm, gạo của vụ thu hoạch được đưa ra thị trường. Gạo 25% tấm là loại gạo xuất khẩu phổ biến của các nước, được chào bán ở mức 342 USD/tấn, tăng 14-15% so với tháng 9/2007 [36].
Giá gạo thế giới năm 2008 đã tăng gần 62%, lên mức trung bình 607
USD/tấn so với mức trung bình 376USD/tấn năm 2007. Trong đó vào các tháng 4 và tháng 5 giá gạo đã tăng lên gần gấp 3 lần do tác động từ cơn sốt lương thực thế giới [45].
Biểu đồ 1: Giá gạo thô kỳ hạn tại Chicago, Mỹ năm 2008
USD/cwt
Đơn vị: USD/cwt
Giá gạo thô kỳ hạn tại Chicago, Mỹ năm 2008
Nguồn: Agroviet
25
20
15
10
5
0
Ngày
1/15/2008
2/15/2008
3/15/2008
4/15/2008
5/15/2008
6/15/2008
7/15/2008
8/15/2008
9/15/2008
10/15/2008
11/15/2008
12/15/2008
Nguồn: Báo cáo lúa gạo năm 2008, Trang tin xúc tiến thương mại - Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy giá gạo thế giới liên tục biến động và tăng cao nhất vào giữa tháng 4/2008 và đầu tháng 5/2008. Trong các tháng đầu năm 2008, giá gạo kỳ hạn trên thị trường Chicago liên tiếp thiết lập các mức cao lịch sử, trong bối cảnh nguồn cung gạo thế giới khan hiếm, cộng thêm những động thái nhằm hạn chế thương mại gạo của một số Chính phủ đã càng làm tăng thêm nỗi lo ngại về tình trạng an ninh lương thực. Giá gạo kỳ hạn gần nhất trên thị trường Chicago đạt mức cao kỷ lục 22,58 USD/cwt vào ngày 23/4/2008, trong khi đầu năm chỉ là 14,62 USD/cwt. Giá cả nhiên liệu và lương thực leo thang đã đẩy giá gạo lên cao và nguồn cung bị đóng băng do các quốc gia xuất khẩu lo ngại vấn đề an ninh lương thực đã đẩy giá gạo liên tục tăng. Cuối tháng 5 đến tháng 6/2008 do cơn sốt giá lương thực “nguội