Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2008 và ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ - 11

cần được phát triển lên tầm cao mới, giúp các nhà đầu tư ngày càng tiếp cận được với những sản phẩm kinh doanh hiện đại, NHNN nên phối hợp cùng Vụ quản lý ngoại hối và Hiệp hội kinh doanh vàng ngồi lại cùng soạn thảo những quy định và quy chế riêng để áp dụng cho các trung tâm giao dịch vàng và các tố chức đang kinh doanh vàng trên tài khoản để tránh rủi ro và thiệt hại cho các nhà đầu tư.

- Tập trung phát triển nguồn nhân lực cho các ngân hàng để phát triển các sản phẩm phái sinh với chi phí thấp để phục vụ nhu cầu trong nước khỏi phải thông qua các tổ chức nước ngoài (Option, Future,…)

- NHNN cũng nên tổ chức tập trung và cho ra đời Trung tâm giao dịch dành cho vàng để các ngân hàng ký gửi và giao dịch, tránh phải vận chuyển tới lui, trung tâm giao dịch này hoạt động công khai, minh bạch và hỗ trợ ngân hàng hay chính phủ khi gặp khó khăn thanh khoản. Quy định tách riêng hoạt động quản lý và kinh doanh để tránh mâu thuẫn với quyền lợi của nhà đầu tư.

- NHNN cũng nên xem xét lại việc dự trữ vàng để đa dạng hóa danh mục dự trữ nhằm can thiệp bình ổn tỷ giá, giá vàng khi cần thiết và tránh rủi ro biến động của đồng Đôla khi đồng tiền này có nguy cơ mất giá trên thị trường.

- NHNN cùng các cơ quan tham mưu cũng cần nghiên cứu và sớm cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia.

Hiện Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng đầu thế giới. Do vậy, đã đến lúc cần phải có một sàn giao dịch vàng mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Còn nếu cứ tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro.

Hoạt động của sàn giao dịch vàng quốc gia là độc lập, không phụ thuộc hoặc hoạt động vì lợi ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là

làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh tranh kinh doanh giữa các hội viên, các doanh nghiệp.

Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra thành lập và chịu trách nhiệm điều hành quản lý, do đó, việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá hình thành trên thị trường vàng Việt Nam, giá mua cũng như giá bán sẽ được minh bạch và khách quan nhất.

Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trường vàng thế giới biến động bất thường. Trường hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng hoặc đáp ứng các nhu cầu vàng vật chất cho nhà đầu tư.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Nhà đầu tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn.

Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nướccũng sẽ là rất lớn. Nếu hình thành được sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế được lượng giao dịch không chính thức, tránh được những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra.

Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2008 và ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ - 11

Ngoài ra, qua sàn giao dịch này, Ngân hàng Nhà nước sẽ có cơ sở để ban hành các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trường vàng. Tôi cho rằng, để giúp cho hoạt động của sàn giao dịch vàng linh hoạt hơn, bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước nên ban hành quy chế kinh doanh vàng trên tài khoản. Đây có thể coi là điều kiện tiền đề bởi nếu không có các những quy định hướng dẫn cụ thể thì nghiệp vụ phái sinh như

hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai,… để hạn chế rủi ro sẽ không thực hiện được.

Chính vì vậy, khi đi vào hoạt động, sàn giao dịch vàng quốc gia cần phải được hưởng những chính sách thỏa đáng để tạo điều kiện cho thị trường phát triển ổn định với đúng nghĩa là một thị trường dịch vụ nhưng vẫn bảo vệ được lợi ích cho nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Và nếu sàn hoạt động tốt sẽ góp phần kiểm soát thị trường tiền tệ.

3.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại


Thị trường tài chính Việt Nam phát triển sau nên việc tham gia các sản phẩm phái sinh cũng như việc đầu tư của nhà đầu tư có nhiều khó khăn so với các thị trường đã phát triển. Giao dịch tại thị trường quốc tế ngoài đa dạng về hàng hóa (tiền tệ, vàng, kim loại quý, dầu, sản phẩm nông nghiệp...), còn có tất cả các sản phẩm phục vụ tối đa yêu cầu đầu tư. Ngoài ra, vì hoạt động lâu đời nên tính chất kinh tế thị trường tức cung cầu sẽ quyết định giá cả hàng hóa và các khuôn khổ pháp lý rõ ràng có thể giúp nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư. Ngược lại, thị trường tài chính tại Việt Nam hết sức mới mẻ, có thể thấy một số những khó khăn cho việc kinh doanh như: Chưa có khuôn khổ pháp lý nhằm bảo vệ nhà đầu tư khỏi những rủi ro có thể phòng tránh, thiếu các sản phẩm phái sinh hay có nhưng chi phí quá cao khiến cho việc đầu tư hoặc sử dụng các sản phẩm này không thể hoặc phát huy tác dụng rất ít, chưa nói đến việc giá cả một số hàng hóa và tỷ giá được nhà nước giám sát chặt chẽ (giá dầu, tỷ giá…) khiến cho việc sử dụng các công cụ phái sinh này khó phát huy tác dụng.

3.2.2.1. Kinh doanh vàng trạng thái


Nếu có đủ nguồn lực và kinh nghiệm, việc kinh doanh vàng trạng thái tại các ngân hàng sẽ đem đến nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng mặc dù không tránh khỏi những rủi ro.

- Thay vì duy trì số dư ngoại tệ trên tài khoản tại một số ngân hàng nước ngoài thì nên chuyển một phần số dư này qua vàng để tăng thu nhập khi có biến động giá.

- Mua vàng giá thấp để cho vay hoặc đầu tư và bán vàng khi giá cao hoặc bán nguồn vàng huy động được của khách hàng với giá cao và mua vào trả lại lúc giá thấp – kinh doanh trạng thái này tuy chứa đựng rất nhiều rủi ro nhưng đem đến lợi nhuận vô cùng hấp dẫn.

3.2.2.2. Kinh doanh phối hợp không tồn tại trạng thái


- Ngân hàng có thể vay vàng hoặc lấy vàng huy động được đẻ bán kết hợp với việc mua quyền chọn mua (call option) trong tương lai hoặc mua vàng kết hợp với mua quyền chọn bán (put option) trong những thời điểm phù hợp. Việc kinh doanh này không tồn tại trạng thái. Ít rủi ro hơn so với hoạt động mua bán vàng trạng thái trong thời gian dài để kiếm lời.‌

- Phát huy các nghiệp vụ Option khi cần thiết để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi các nhà đầu tư có nhu cầu tham gia hoạt động tín dụng vàng, tránh trường hợp nhà đầu tư không có đủ khả năng trả nợ khi giá vàng biến động quá lớn.

3.3. Các giải pháp hỗ trợ khác của chính phủ đảm bảo an ninh tiền tệ khi có sự thay đổi trong thị trường nhập khẩu vàng

3.3.1. Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình


- Các cơ quan chủ chốt về hạch toán cần phải tăng cường hướng dẫn để đánh giá các loại chứng khoán, đồng thời tính đến việc đánh giá các sản phẩm phức tạp và có tính thanh khoản thấp, đặc biệt vào những thời điểm khó khăn.

- Những cơ quan đề ra các chuẩn mực hạch toán cần phải thúc đẩy mạnh mẽ công việc của mình nhằm khắc phục những điểm yếu trong các

chuẩn mực hạch toán và công bố thông tin đối với những khoản mục ngoại bảng.

- Những cơ quan điều tiết và những cơ quan đề ra các chuẩn mực hạch toán cần tăng cường các yêu cầu công bố thông tin về các công cụ tài chính phức tạp của các doanh nghiệp cho các đối tượng trên thị trường.

- Để thúc đẩy sự ổn định tài chính, công tác quản trị điều hành của cơ quan đề ra chuẩn mực hạch toán quốc gia cần phải được tăng cường, kể cả việc rà soát lại thành phần của cơ quan này, đặc biệt nhằm đảm bảo tính minh bạch rõ ràng, trách nhiệm giải trình và mối quan hệ hợp lý giữa cơ quan này và các cơ quan thẩm quyền hữu quan.

- Các tổ chức thuộc khu vực tư nhân đã từng xây dựng được những thông lệ tốt nhất cho các công cụ vốn và/hoặc các quỹ bảo toàn tỷ giá cần phải đưa ra những đề nghị cho một nhóm thống nhất các thông lệ tốt nhất. Chính phủ cần phải đánh giá tính hoàn chỉnh đầy đủ của những đề nghị này, dựa trên những phân tích của các cơ quan quản lý điều tiết, Diễn đàn ổn định tài chính mở rộng (FSF) và các cơ quan hữu quan khác.

Các hành động trung hạn

- Các cơ quan chủ chốt đề ra chuẩn mực hạch toán quốc gia cần phải phấn đấu cho mục tiêu tạo ra một chuẩn mực hạch toán chất lượng cao duy nhất.

- Các cơ quan quản lý điều tiết, các cơ quan thanh tra giám sát và các cơ quan đề ra chuẩn mực hạch toán, nếu thấy phù hợp, cần phải hợp tác với nhau và với khu vực tư nhân để thường xuyên đảm bảo cho việc ứng dụng và thực thi các chuẩn mực hạch toán chất lượng cao.

- Các định chế tài chính phải cung cấp thông tin tổng hợp về rủi ro trong báo cáo của mình và công bố tất cả các khoản thua lỗ một cách thường xuyên và phù hợp với thông lệ quốc tế tốt nhất nếu thấy phù hợp. Các cơ quan quản lý cần phải đảm bảo rằng các sao kê tài chính của một

định chế tài chính phải là một bức tranh mô tả tổng thể, chính xác và kịp thời những hoạt động của doanh nghiệp (kể cả các hoạt động ngoại bảng) và phải được báo cáo thường xuyên và nhất quán.

3.3.2. Tăng cường quy chế lành mạnh và an toàn


Các quy định quy chế


- Chính phủ và các cơ quan quản lý điều tiết khác cần đưa ra những kiến nghị để giảm thiểu tình trạng thiên về tính chu kỳ, bao gồm cả việc rà soát xem việc đánh giá và khuyến khích, vốn ngân hàng, các khoản bù đắp và các hoạt động trích lập dự phòng có thể làm trầm trọng thêm các xu thế chu kỳ.

Các hành động trung hạn

- Tùy mức độ của từng quốc gia và từng khu vực, mỗi quốc gia hoặc mỗi khu vực cam kết rà soát và thông báo về cơ cấu và các nguyên tắc của hệ thống quản lý điều tiết để đảm bảo cho nó tương thích với hệ thống tài chính hiện đại và ngày càng được toàn cầu hóa.

- Các cơ quan thích hợp cần phải rà soát bản chất khác biệt của quy chế trong các hệ thống ngân hàng, chứng khoán, và bảo hiểm và cung cấp một báo cáo nêu lên những vấn đề và các khuyến nghị cần phải cải tiến. Cũng cần phải tiến hành việc rà soát lại quy mô của quy chế tài chính, đặc biệt nhấn mạnh đến các định chế, các công cụ và các thị trường hiện nay chưa có quy chế rõ ràng, cùng với việc đảm bảo rằng tất cả các định chế quan trọng nằm trong hệ thống đều có quy chế đầy đủ hoàn chỉnh.

- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cần phải rà soát lại các chế độ nghị quyết và các luật phá sản trên cơ sở những kinh nghiệm gần đây để đảm bảo rằng các luật lệ đó cho phép cắt giảm một cách trật tự các định chế tài chính liên quốc gia lớn và phức tạp.

- Các định nghĩa về vốn cần phải được hài hòa hóa để đạt được những biện pháp nhất quán về vốn và an toàn vốn.

Giám sát an toàn


- Các cơ quan quản lý điều tiết cần phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo cho các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đáp ứng được các chuẩn mực cao nhất về mặt tổ chức quốc tế của các cơ quan quản lý điều tiết chứng khoán và tránh được tình trạng xung đột quyền lợi, tăng cường cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư và các nhà phát hành và phân biệt xếp hạng cho các sản phẩm phức tạp. Công việc này sẽ giúp đảm bảo rằng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có được động cơ đúng đắn và có sự giám sát thích đáng để tạo điều kiện cho họ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin và đánh giá khách quan cho thị trường.

- Các cơ quan quản lý điều tiết chứng khoán cần phải rà soát việc ứng dụng các chuẩn mực và các cơ chế của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cho việc tuân thủ giám sát.

- Các cơ quan thẩm quyền cần đảm bảo rằng các định chế tài chính duy trì đầy đủ vốn ở mức cần thiết nhằm củng cố lòng tin. Những cơ quan đề ra chuẩn mực quốc tế cần phải đưa ra những yêu cầu tăng cường vốn đối với các hoạt động chứng khoán hóa và tín dụng được cơ cấu của các ngân hàng.

- Các cơ quan thanh tra và điều tiết quản lý cần phải thúc đẩy nỗ lực cắt giảm rủi ro hệ thống của các giao dịch CDS và công cụ phái sinh trên thị trường OTC; cần phải khẳng định rằng các đối tượng tham gia thị trường hỗ trợ việc kinh doanh ngoại hối hoặc các sàn giao dịch điện tử đối với các hợp đồng CDS; tăng cường tính minh bạch của thị trường phái sinh OTC; và đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng cho các công cụ phái sinh OTC có thể đủ khả năng hỗ trợ cho khối lượng ngày càng tăng lên.

Các hành động trung hạn

- Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm thực hiện xếp hạng công khai cần phải thực hiện đăng ký.

- Các cơ quan thanh tra giám sát và các ngân hàng thương mại cần phải xây dựng các phương pháp tiếp cận mạnh mẽ và nhất quán trên trường quốc tế để giám sát vốn khả dụng của, và kinh doanh vốn khả dụng ngân hàng trung ương cho các ngân hàng xuyên quốc gia.

Quản lý rủi ro


- Các cơ quan quản lý điều tiết cần phải xây dựng quy chế hướng dẫn để tăng cường công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng phù hợp với các thông lệ quốc tế tốt nhất, và phải khuyến khích các định chế tài chính đánh giá lại công tác kiểm soát nội bộ và thực hiện các chính sách tăng cường cho việc quản lý rủi ro lành mạnh.

- Các cơ quan quản lý điều tiết phải xây dựng và thực hiện các quy trình để đảm bảo rằng các định chế tài chính thực thi các chính sách nhằm tăng cường quản lý rủi ro thanh khoản, bao gồm cả việc tạo ra những công cụ bảo vệ thanh khoản chắc chắn.

- Các cơ quan thanh tra giám sát cần phải đảm bảo rằng các định chế tài chính đề ra các quy trình nhằm tính toán kịp thời và đầy đủ việc tích tụ rủi ro và các vị thế rủi ro đối ứng lớn qua các sản phẩm và các vùng địa lý.

- Các định chế cần phải đánh giá các mô hình quản lý rủi ro của mình để đói phó với những khó khăn thách thức và báo cáo các nỗ lực này lên các cơ quan thanh tra giám sát.

- Ủy ban Basel cần phải nghiên cứu nhu cầu và giúp đỡ các định chế xây dựng các mô hình thử nghiệm mới trong việc giải quyết tình trạng khó khăn, nếu thấy phù hợp.

- Các định chế tài chính cần phải đề ra các chính sách khuyến khích rõ ràng trong nội bộ để duy trì tính ổn định và các hành động cần phải thực hiện, thông qua các nỗ lực tự nguyện hoặc hành động bắt buộc theo quy định, để tránh khỏi các chương trình bồi hoàn có khả năng tạo ra lợi nhuận ngắn hạn quá mức hoặc phải chấp nhận rủi ro.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/05/2022