Tần suất là chỉ số phần trăm các phương án trả lời của các câu hỏi đóng và các câu hỏi mở.
2.2.4.2. Phương pháp phân tích thống kê suy luận
Phân tích so sánh: Trong nghiên cứu này. chúng tôi chủ yếu sử dụng phép so sánh giá trị trung bình (compare means). Các giá trị trung bình được coi là khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với xác suất p < 0,05.
Phân tích tương quan nhị biến dùng để tìm hiểu sự liên hệ bậc nhất giữa hai biến số, nghĩa là sự biến thiên ở một biến số xảy ra đồng thời với sự biến thiên ở biến số kia như thế nào. Mức độ liên kết hay độ mạnh của mối liên hệ giữa hai biến số được đo bởi hệ số tương quan (r). Trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng hệ số tương quan Pearson. Hệ số này có giá trị từ - 1 đến + 1 cho biết độ mạnh và hướng của mối liên hệ đó. Giá trị + (r > 0) cho biết mối liên hệ thuận giữa hai biến số. Giá trị - (r < 0) cho biết mối liên hệ nghịch giữa hai biến số. Khi r = 0 thì hai biến số đó không có mối liên hệ. Dựa vào hệ số xác suất (P) ta có thể biết mức độ có nghĩa của mối quan hệ, ở đây, chúng tôi chọn Alpha = 0,05 là cấp độ có nghĩa. Khi P < 0,05 thì giá trị r được chấp nhận là có ý nghĩa cho phân tích về mối quan hệ giữa hai biến số.
2.2.4.3. Thang đánh giá
Cách tính toán điểm số của các phần trong mỗi bảng hỏi như sau: Ở mức độ tìm hiểu thông tin :
+ Không : 1 điểm
+ Biết ít: 2 điểm
+ Bình thường: 3 điểm
+ Khá nhiều : 4 điểm
+ Rất nhiều: 5 điểm Ở mức độ nhận thức :
+ Sai: 1 điểm
+ Sai nhiều hơn đúng: 2 điểm
+ Nửa đúng nửa sai: 3 điểm
+ Đúng nhiều hơn sai : 4 điểm
+ Đúng : 5 điểm
Như vậy, ở mức độ tìm hiểu thông tin và mức độ nhận thức điểm tối đa là 5 và tối thiểu là
1. Từ thang điểm trên chúng tôi tính được ĐTB của từng item.
Chúng tôi cũng tiến hành xây dựng các thang đo để đo mức độ nhận thức của sinh viên về các vấn đề liên quan đến trầm cảm. Cách tính điểm chênh lệch của mỗi thang đo như sau: Chúng tôi lấy ĐTB của sinh viên có ĐTB cao nhất trừ đi ĐTB của sinh viên có ĐTB thấp nhất và chia cho
5. Kết quả đó chính là độ chênh lệch của mỗi thang đo (SD). Từ đó chúng tôi chia các khoảng của thang đo như sau:
Thang đo mức độ tìm hiểu trầm cảm của sinh viên qua các nguồn thông tin
Qua sử lý SPSS chúng tôi tính được sinh viên có ĐTB cao nhất là 5 và ĐTB thấp nhất là 1.
Chúng tôi tính được: (5 – 1)/5 = 0,8. Từ đó chúng tôi tính được các mức độ như sau:
ĐTB từ 1 đến dưới 1,8: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm từ nguồn thông tin đó là rất ít.
ĐTB từ 1,8 đến dưới 2,6: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm từ nguồn thông tin đó là khá ít.
ĐTB từ 2,6 đến dưới 3,4: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin đó ở mức khá.
ĐTB từ 3,4 đến dưới 4,2: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin đó là nhiều.
ĐTB từ 4,2 đến 5: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin đó là rất nhiều.
Thang đo mức độ nhận thức của sinh viên về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
Qua sử lý SPSS chúng tôi tính được sinh viên có ĐTB cao nhất là 4,83 và ĐTB thấp nhất là 1,96. Chúng tôi tính được: (4,83 – 1,96)/5 = 0,574. Qua đó, chúng tôi phân chia mức độ nhận thức của sinh viên về biểu hiện rối loạn trầm cảm thành các mức độ như sau:
ĐTB từ 1,96 đến dưới 2,534: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên có sự nhận thức rất kém về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 2,534 đến dưới 3,108: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức kém về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,108 đến dưới 3,682: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức khá về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,682 đến 4,256: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức tốt về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 4,256 đến 4,83: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên nhận thức rất tốt về biểu hiện rối loạn trầm cảm.
Thang đo mức độ nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng tới rối loạn trầm cảm
Tương tự chúng tôi có: (4,52 – 2,04)/5 = 0,496. Từ đó chúng tôi có các mức độ nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng tới rối loạn trầm cảm như sau:
ĐTB từ 2,04 đến dưới 2,536: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên có sự nhận thức rất kém về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 2,536 đến dưới 3,032: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức kém về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,032 đến dưới 3,528: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức
khá những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,528 đến 4,024: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức tốt về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 4,024 đến 4,52: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên nhận thức rất tốt về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
Mức độ nhận thức của sinh viên về hậu quả của rối loạn trầm cảm
ĐTB từ 2,58 đến dưới 3,03: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên có sự nhận thức rất kém về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,03 đến dưới 3,48: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức kém về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,48 đến dưới 3,93: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức khá những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,93 đến 4,38: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức tốt về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 4,38 đến 4,83: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên nhận thức rất tốt về những yếu tố ảnh hưởng rối loạn trầm cảm.
Mức độ nhận thức của sinh viên về các biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm
ĐTB từ 2,4 đến dưới 2,854: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên có sự nhận thức rất kém về biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 2,854 đến dưới 3,308: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức kém về biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,308 đến dưới 3,762: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức khá về biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,762 đến 4,216: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức tốt về biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 4,216 đến 4,67: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên nhận thức rất tốt về biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm.
Nhận thức của sinh viên về các biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm
ĐTB từ 2,3 đến dưới 2,84: Mức độ thấp, tương ứng với việc sinh viên có sự nhận thức rất kém về biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 2,84 đến dưới 3,38: Mức độ tương đối thấp, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức kém về biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,38 đến dưới 3,92: Mức độ trung bình, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức khá về biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 3,92 đến 4,46: Mức độ tương đối cao, tương ứng với việc sinh viên có nhận thức tốt về
biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
ĐTB từ 4,46 đến 5: Mức độ cao, tương ứng với việc sinh viên nhận thức rất tốt về biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
Tiểu kết chương 2
Việc nghiên cứu được tổ chức một cách khoa học kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu tài liệu, trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu. Các phương pháp này bổ sung, hỗ trợ nhau giúp cho kết quả nghiên cứu được đầy đủ và chính xác. Các số liệu được xử lý theo phương pháp định lượng và định tính đảm bảo độ tin cậy cho phép nghiên cứu thu được những kết quả mang tính khách quan và khoa học.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM
3.1. Thực trạng các nguồn thông tin của sinh viên về trầm cảm
Để tìm hiểu sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin nào và mức độ ra sao, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “Bạn biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin nào?” chúng tôi thu được kết quả thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.1: Các nguồn thông tin của sinh viên về rối loạn trầm cảm
Khoa | ĐTB chung | Mức ý nghĩa | ||||||
Kế toán | Lịch sử | Cơ khí | Đa khoa | TLGD | ||||
Ti vi | 3,39 | 3,19 | 3,29 | 2,98 | 3,43 | 3,21 | 3,25 | .085 |
Internet | 4,11 | 3,90 | 3,76 | 3,41 | 3,48 | 3,94 | 3,77 | .000 |
Gia đình | 2,44 | 2,21 | 2,77 | 2,14 | 2,49 | 2,45 | 2,42 | .798 |
Bạn bè | 2,66 | 3,14 | 3,17 | 2,47 | 2,77 | 3,22 | 2,91 | .881 |
Bác sĩ tâm lý | 2,21 | 2,26 | 2,54 | 1,79 | 2,46 | 2,40 | 2,28 | .047 |
Sách | 2,67 | 3,16 | 3,10 | 2,33 | 2,80 | 3,37 | 2,91 | .866 |
Báo | 3,08 | 3,08 | 3,17 | 2,49 | 2,96 | 3,15 | 2,99 | .118 |
Thầy, cô giáo | 2,16 | 3,62 | 2,89 | 2,07 | 2,75 | 3,61 | 2,85 | .012 |
Tư vấn qua điện thoại | 1,47 | 1,69 | 2,03 | 1,30 | 1,82 | 1,93 | 1,71 | .000 |
Chương trình học trên lớp | 1,87 | 3,46 | 2,73 | 1,65 | 2,48 | 3,50 | 2,62 | .000 |
Đài | 2,39 | 2,10 | 2,71 | 2,17 | 2,29 | 2,43 | 2,35 | .139 |
Hoạt động ngoại khóa | 1,99 | 1,67 | 2,37 | 1,78 | 2,22 | 2,35 | 2,06 | .537 |
Qua người đã từng bị trầm cảm | 1,63 | 1,97 | 2,17 | 1,61 | 1,95 | 2,17 | 1,92 | .006 |
ĐTB chung | 2,47 | 2,73 | 2,82 | 2,17 | 2,61 | 2,9 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm - 2
- Một Số Đặc Điểm Tâm Lý Xã Hội Của Sinh Viên
- Các Tiêu Chí Nghiên Cứu Nhận Thức Của Sinh Viên Về Rối Loạn Trầm Cảm
- Thực Trạng Nhận Thức Của Sinh Viên Về Biểu Hiện Của Rối Loạn Trầm Cảm
- Nhận Thức Của Sinh Viên Về Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rối Loạn Trầm Cảm
- Thực Trạng Nhận Thức Của Sinh Viên Về Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rối Loạn Trầm Cảm.
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Qua bảng số liệu trên ta thấy, sinh viên biết đến rối loạn trầm cảm qua các nguồn thông tin được thể hiện ở mức độ khác nhau. Trong đó, phương tiện mà sinh viên thu nhận được nhiều nhất là internet, với mức độ tương đối cao (ĐTB = 3,77). Trong đó, có sự khác biệt lớn giữa các khoa với mức ý nghĩa p < 0,001. Cụ thể, ĐTB cao nhất là khoa Kế toán (ĐTB = 4,11) và thấp nhất là khoa Cơ khí (ĐTB = 3,41) nhưng ta có thể thấy ĐTB của các khoa đều thuộc mức độ tương đối cao, tức là sinh viên các khoa biết đến rối loạn trầm cảm là qua nguồn thông tin này là nhiều. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với thực tế bùng nổ công nghệ hiện nay trên mạng internet. Đó là một phương tiện cập nhật nhanh nhất và cho những thông tin phong phú nhất. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, sinh viên có thể dễ dàng truy cập internet ở mọi lúc mọi nơi, sinh viên chỉ cần tuy cập trong một thời gian ngắn cũng thu được một lượng kiến thức nhất định, giá cả lại phải chăng. Tuy nhiên, các nguồn thông tin từ internet không phải lúc nào cũng chính xác và đúng đắn, vì vậy sinh viên cần lựa chọn các trang mạng uy tín để lựa chọn những thông tin phù hợp nhất.
Cùng với internet thì sinh viên cũng thu nhận thông tin về rối loạn trầm cảm qua các nguồn tivi, sách, báo là khá nhiều (ĐTB = 3,25; 2,91; 2,99). Trong đó, các chuyên ngành Kế toán, Tâm lý, Lịch sử, Đa khoa, Tâm lý giáo dục đều đều có mức độ thu nhận thông tin về rối loạn trầm cảm qua sách là khá nhiều, chỉ riêng có khoa cơ khí biết đến rối loạn trầm cảm qua nguồn thông tin này ở mức độ khá ít. Những phương tiện thông tin như tivi, sách, báo tuy tốc độ truy cập không nhanh bằng mạng internet nhưng cũng cung cấp lượng thông tin lớn. Sách báo thì hiện nay ở thư viện các trường đều có và việc mua hoặc mượn sách, báo cũng phù hợp với kinh tế của sinh viên.
Sinh viên thu nhận thông tin về trầm cảm qua nguồn thông tin tư vấn điện thoại có điểm trung bình thuộc mức thấp (ĐTB = 1,71), tức là nguồn thông tin về trầm cảm mà sinh viên có được từ kênh tư vấn qua điện thoại là rất ít. Trong đó, có sự khác biệt lớn giữa các khoa khi mức ý nghĩa p < 0,001. Cụ thể, ở khoa Lịch sử (ĐTB = 2,03); Tâm lý giáo dục (ĐTB = 1,93) và Y đa khoa (ĐTB = 1,82) đều có ĐTB ở mức độ tương đối thấp, các khoa còn lại đều có mức ĐTB thấp (Tâm lý là 1,69; Kế toán là 1,47 và Cơ khí là 1,3). Khi được phỏng vấn sâu về vấn đề này thì bạn
P.T.H.M khoa Kế toán - Trường ĐH Kinh tế quốc dân chia sẻ “tự nhiên em hỏi về cái đó làm gì, em chưa bao giờ gọi điện thoại để nhờ tư vấn thông tin về trầm cảm”. Đây là kênh thông tin mà sinh viên sẽ phải trả phí khi sử dung nên có thể ít bạn sinh viên tìm đến nguồn thông tin này. Mặt khác không phải nhân viên tư vấn nào cũng được trang bị đầy đủ kiến thức về trầm cảm để có thể tư vấn cho sinh viên một cách chính xác và toàn diện. Vì vậy những thông tin về trầm cảm mà sinh viên thu được từ nguồn thông tin này là rất ít.
Những thông tin về rối loạn trầm cảm được sinh viên biết đến qua người đã bị trầm cảm cũng ở mức độ tương đối thấp (ĐTB = 1,92), tức là những hiểu biết về trầm cảm mà sinh viên thu được qua nguồn thông tin này là khá ít. Điều này là dễ hiểu khi có tới 91,3% sinh viên đã trả lời là “không” khi được hỏi có quen biết người mắc bệnh trầm cảm hay không (phần thông tin cá nhân, phụ lục 3). Vì đa số sinh viên không có người thân quen mắc rối loạn trầm cảm nên nguồn thông tin về trầm cảm từ những kênh thông tin này là rất ít.
Như vậy, các nguồn thông tin được sinh viên tiếp cận và thu nhận nhiều thông tin nhất về trầm cảm đó là nguồn internet, tivi, sách, báo. Các nguồn sinh viên ít thu nhận thông tin nhất là tư vấn qua điện thoại, qua người đã từng bị trầm cảm và qua hoạt động ngoại khóa.
3.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên về bản chất của rối loạn trầm cảm
Quan điểm của sinh viên về trầm cảm.
Chúng tôi tiến hành tìm hiểu quan điểm của sinh viên về trầm cảm qua câu hỏi số 3 của bảng hỏi. Kết quả cho thấy, trong tổng số 600 sinh viên được nghiên cứu thì có 78,7% sinh viên có quan điểm đúng về trầm cảm khi cho rằng trầm cảm là một dạng bệnh lý, còn lại 21,3% nhận thức chưa đúng về trầm cảm. Cụ thể là, 17% sinh viên cho rằng trầm cảm là trạng thái tâm lý tiêu cực trong ngày, 2,5% cho rằng đó là một dạng tính cách đặc trưng của con người và có 1,8% sinh viên
cho rằng trầm cảm là một hiện trượng tâm lý bình thường. Kết quả nghiên cứu quan điểm của sinh viên về rối loạn trầm cảm thể hiện rõ ở bảng sau:
1.8%
2.5% 17%
78.7%
một dạng bệnh lý
một dạng tính cách đặc trưng của con người
trạng thái tâm lý tiêu cực trong ngày
hiện tượng tâm lý bình thường
Biểu đồ 3.1: Quan điểm của sinh viên về trầm cảm
Ta nhận thấy rằng, đa số sinh viên được nghiên cứu đã có quan điểm đúng về trầm cảm khi cho rằng trầm cảm là một loại bệnh lý. Trong đó, qua bảng số liệu 3 (câu 3 - phụ lục 05) chúng tôi thấy rằng sinh viên khoa Tâm lý (89,9%) và sinh viên khoa Lịch sử (82,2%) là hai khoa có số lượng sinh viên nhận thức đúng về vấn đề này chiếm tỉ lệ cao nhất, thấp nhất là khoa Kế toán và Tâm lý giáo dục với 73% sinh viên lựa chọn đúng. Tuy nhiên, qua đây một lần nữa có thể thấy rằng hầu hết sinh viên được nghiên cứu đều có quan điểm đúng về trầm cảm.
Như vậy đa số sinh viên đều cho rằng rối loạn trầm cảm là một dạng bệnh lý. Trong đó tỉ lệ sinh viên nhận thức đúng về vấn đề này ở khoa Tâm lý và khoa Lịch sử là cao hơn so với các khoa khác.
Nhận thức của sinh viên về bản chất của trầm cảm
Khảo sát thực trạng nhận thức của sinh viên về bản chất của rối loạn trầm cảm, chúng tôi đã thu được kết quả tại bảng 4 (câu 4 - phụ lục 03) như sau: có 41,5% sinh viên nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm khi lựa chọn đáp án trầm cảm là “Là trạng thái rối loạn cảm xúc, có vẻ mặt u sầu buồn bã hoặc vô cảm, giảm năng lượng, giảm hứng thú hoạt đông, có cảm giác bi quan, có ý nghĩ tự sát và có thể đi kèm với bệnh cơ thể”; có tới 40,5% sinh viên cho rằng trầm cảm là “là trạng thái ít nói, ngại giao tiếp, cảm xúc không ổn định, vừa lạc quan sau đó lại bi quan và đi kèm với bệnh cơ thể”. Bên cạnh đó, có 13% sinh viên cho rằng trầm cảm “là sự lo lắng, sợ hãi quá mức, kéo dài dai dẳng, cùng với đó là hoang tưởng về một thế giới không có thực, đi kèm với sự mất kiểm soát hành vi”; và có 5% sinh viên cho rằng trầm cảm là “là sự mất phản ứng cảm xúc, lúc nào cũng nghĩ mình mắc bệnh gì đó và cho rằng mình sẽ chết”. Như vậy, bên cạnh một số bộ phận sinh viên đã có nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm (41,5%) thì phần đông sinh viên (58,5%) vẫn còn nhầm lẫn về vấn đề này.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhận thức của sinh viên các khoa về bản chất của rối loạn trầm cảm, kết quả thu được như sau:
Bảng 3.2: Nhận thức của sinh viên về bản chất của trầm cảm
Sự lo lắng sợ hãi quá mức (1) | Trạng thái rối loạn cảm xúc (2) | Sự mất phản ứng cảm xúc (3) | Vừa lạc quan, vừa bi quan (4) | |||||
Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | |
Kế toán | 7 | 7,0 | 37 | 37,0 | 4 | 4,0 | 52 | 52,0 |
Tâm lý | 21 | 21,0 | 52 | 52,0 | 11 | 11,0 | 16 | 16,0 |
Lịch sử | 16 | 16,0 | 37 | 37,0 | 1 | 1,0 | 46 | 46,0 |
Cơ khí | 7 | 7,0 | 29 | 29,0 | 2 | 2,0 | 62 | 62,0 |
Y Đa khoa | 12 | 12,0 | 50 | 50,0 | 5 | 5,0 | 33 | 33,0 |
Tâm lý - giáo dục học | 15 | 15,0 | 44 | 44,0 | 7 | 7,0 | 34 | 34,0 |
Chú thích:
(1): Là sự lo lắng sợ hãi quá mức kéo dài dai dẳng, cùng với đó là hoang tưởng về một thế giới không có thực, mất kiểm soát hành vi và đi kèm với bệnh cơ thể.
(2): Là trạng thái rối loạn cảm xúc, có vẻ mặt u sầu buồn bã hoặc vô cảm, giảm năng lượng, giảm hứng thú hoạt đông, có cảm giác bi quan, có ý nghĩ tự sát và có thể đi kèm với bệnh cơ thể.
(3): Là sự mất phản ứng cảm xúc, lúc nào cũng cũng trong trạng thái đau khổ vì nghĩ rằng mình mắc bệnh gì đó và cho rằng mình sẽ chết.
(4): Là trạng thái ít nói, ngại giao tiếp, cảm xúc không ổn định, vừa lạc quan sau đó lại bi quan và đi kèm với bệnh cơ thể.
Nhìn vào bảng trên ta thấy, số lượng sinh viên nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm ở khoa Tâm lý là cao nhất khi cho rằng rối loạn trầm cảm là “Là trạng thái rối loạn cảm xúc, có vẻ mặt u sầu buồn bã hoặc vô cảm, giảm năng lượng, giảm hứng thú hoạt đông, có cảm giác bi quan, có ý nghĩ tự sát và có thể đi kèm với bệnh cơ thể”. Cụ thể, trong tổng số 100 sinh viên nghiên cứu tại khoa Tâm lý - ĐH KHXH & NV thì có 52 sinh viên (52%) nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm, tại khoa Y Đa khoa - ĐH Y Hà Nội là 50 sinh viên (50%) và khoa Tâm lý - giáo dục học là 44 sinh viên (44%); Ở khoa Kế toán và Lịch sử là 37%; Khoa Cơ khí - Trường ĐH Bách Khoa có số sinh viên nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm là ít nhất (29%). Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy rằng dù ba khối ngành Tâm lý, Y Đa khoa, Tâm lý - giáo dục học có số lượng sinh viên nhận thức đúng về bản chất của trầm cảm là cao nhất nhưng cũng chỉ chiếm trên dưới một nửa số sinh viên được nghiên cứu tại các khoa đó (52/100; 50/100, 44/100). Bên cạnh đó vẫn còn có rất nhiều sinh viên nhầm lẫn về bản chất của rối loạn trầm cảm khi cho rằng bản chất của trầm cảm là “là trạng thái ít nói, ngại giao tiếp, cảm xúc không ổn định, vừa lạc quan sau đó lại bi quan và đi kèm với bệnh cơ thể”, cụ thể tại khoa Cơ khí là 62%, khoa Kế toán là 52% và