Một Số Đặc Điểm Tâm Lý Xã Hội Của Sinh Viên

tình cảm cũng có vai trò tác động, củng cố nhận thức để nhận thức hoàn thiện và sâu sắc hơn. Xúc cảm, tình cảm là động lực kích thích con người nhận thức, thúc đẩy mạnh mẽ con người tìm tòi chân lý. Có thể nói, xúc cảm, tình cảm nảy sinh trên cơ sở nhận thức, nhưng khi đã nảy sinh, hình thành xúc cảm, tình cảm thì nó lại tác động trở lại nhận thức, thậm chí có thể làm biến đổi nhận thức.

Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi

Trong mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi, có thể nói rằng nhận thức có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên thái độ và thực hiện hành vi của con người. Nhận thức là tiền đề, là sự định hướng và sự điều chỉnh hành vi của cá nhân, trong hoạt động thực tiễn. Giữa nhận thức và hành vi luôn luôn tồn tại một mối quan hệ qua lại hai chiều. Thông thường, khi con người nhận thức đúng về một vấn đề, một sự vật, hiện tượng nào đó thì nó sẽ định hướng điều chỉnh, thúc đẩy hành động của con người theo hướng tích cực phù hợp với chuẩn mực của xã hội.

1.2.2. Lý luận về trầm cảm

1.2.2.1. Khái niệm trầm cảm

Theo Tiến Sĩ, bác sĩ Hoàng Cẩm Tú: “Trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm xúc biểu hiện sự buồn rầu chán nản, thất vọng quá mức bình thường làm ức chế toàn bộ các quá trình hoạt động tâm thần. Rối loạn đặc trưng bởi khí sắc trầm, giảm hoặc mất mọi quan tâm thích thú, mất năng lượng, dễ mệt mỏi, hoạt động giảm, khó tập trung chú ý, tư duy chậm, kèm theo mặc cảm tội lỗi, giảm giá trị hoặc hoang tưởng bị tội lỗi, chán đời…và đi kèm theo các triệu chứng cơ thể khác như rối loạn giấc ngủ, ăn…”

GS.TS Nguyễn Đăng Dung và bác sĩ Nguyễn Văn Siêm đã định nghĩa về trầm cảm như sau: “Trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động. Trong các cơn điển hình, có biểu hiện ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Bệnh nhân có khí sắc buồn rầu, ủ rũ, giảm hứng thú và quan tâm, cảm thấy tương lai ảm đạm, tư duy chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho mình là hèn kém, giảm sút lòng tự tin, thường hoang tưởng bị tội, dẫn đến tự sát, giảm vận động, ít nói, thường nằm hoặc ngồi lâu ở một tư thế, kèm theo sự rối loạn các chức năng sinh học (mất ngủ, chán ăn, mệt mỏi…)”.

Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng định nghĩa: “Trầm cảm là trạng thái xúc cảm mạnh đặc trưng bởi bối cảnh cảm xúc âm tính, bởi những thay đổi của môi trường về những quan điểm của động cơ nhận thức và bởi tính thụ động của hành vi nói chung” [3, tr.901].

Theo Bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD - 10) và Bảng phân loại tâm thần lần thứ 4 của hiệp hội tâm thần học Mỹ (DSM - IV) thì: “Trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng giảm khí sắc, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là tăng sự mệt mỏi sau một số cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian kéo dài, ít nhất là hai tuần”.

Tóm lại, Trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm xúc được biểu hiện một cách rõ rệt bởi khí sắc, hành vi, ứng xử thể hiện sự buổn rầu, kèm theo cảm giác chán chường, bi quan thậm chí có ý nghĩ tự sát, ức chế gần như toàn bộ các mặt hoạt động thể chất và tâm lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Như vậy, trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng hoạt động hay nói cách khác đó chính là những biểu hiện đặc trưng là sự thay đổi, rối loạn về khí sắc. Vì vậy trầm cảm chính là trạng thái rối loạn cảm xúc kéo dài ít nhất là 2 tuần. Gọi “trầm cảm” là “rối loạn trầm cảm” để thể hiện rõ tính chất bệnh lí của trạng thái cảm xúc này. Chính vì vậy khái niệm “Trầm cảm” và “Rối loạn trầm cảm” được chúng tôi đồng nhất trong luận văn này.

1.2.2.2. Biểu hiện lâm sàng của rối loạn trầm cảm

Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm - 3

Biểu hiện lâm sàng của bệnh trầm cảm rất đa dạng, phong phú, các triệu chứng của bệnh trầm cảm bao gồm:

Khí sắc trầm cảm. Khí sắc trầm cảm (khí sắc giảm) là nét mặt của bệnh nhân rất đơn điệu, luôn buồn bã, các nếp nhăn giảm nhiều thậm chí mất hết nếp nhăn. Tình trạng khí sắc giảm rất bền vững do bệnh nhân buồn, bi quan, mất hi vọng. Trong một số trường hợp giai đoạn đầu buồn có thể bị phủ nhận, nhưng có thể biểu hiện khi khỏi bệnh (ví dụ giảm chú ý, bắt đầu than phiền). Ở một số người họ than phiền rằng không còn nhiệt tình, không còn cảm giác gì, họ luôn ở trong trạng thái lo âu.

Mất hứng thú hoặc sở thích ở hầu hết các hoạt động. Mất hứng thú hoặc sở thích gần như biểu hiện trong mọi mức độ. Các bệnh nhân cho rằng họ đã mất hết các sở thích vốn có (tôi không thích gì bây giờ cả). Tất cả các sở thích trước đây của bệnh nhân đều bị ảnh hưởng nặng nề, kể cả ham muốn trầm cảm.

Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít hoặc sút cân. Sự ngon miệng thường bị giảm sút, nhiều bệnh nhân họ có cảm giác bị ép phải ăn. Họ ăn rất ít, thậm trí trong các trường hợp bệnh nặng bệnh nhân nhịn ăn hoàn toàn. Vì vậy bệnh nhân thường sút cân nhanh chóng (có thể sút vài cân trong vòng 1 tháng).

Mất ngủ nhưng có thể bệnh nhân ngủ quá nhiều. Rối loạn giấc ngủ hay gặp nhất trong giai đoạn trầm cảm chủ yếu là mất ngủ. Các bệnh nhân thường mất ngủ giữa giấc (nghĩa là tỉnh ngủ vào lúc ban đêm và khó có thể ngủ tiếp). Mất ngủ đầu giấc (nghĩa là khó bắt đầu giấc ngủ) cũng có thể xuất hiện. Mất ngủ là triệu chứng gây khó chịu rất nhiều ở bệnh nhân.

Rối loạn hoạt động tâm thần vận động. Thay đổi tâm thần vận động bao gồm kích động (nghĩa là bệnh nhân luôn đi đi lại lại, không thể ngồi yên), vận động chậm chạp (như nói chậm, vận động cơ thể chậm), tăng khoảng nghỉ trước khi trả lời, giọng nói nhỏ, số lượng ít, nội dung nghèo nàn, thậm chí câm. Vận động tâm thần chậm cần đủ rõ để những người xung quanh có thể nhận thấy chứ không phải chỉ là cảm giác cơ thể của bệnh nhân.

Giảm sút năng lượng. Năng lượng giảm sút, kiệt sức và mệt mỏi là rất hay gặp. Một người có thể than phiền mệt mỏi mà không có một nguyên nhân cơ thể nào. Thậm chí chỉ với một công việc rất nhẹ nhàng họ cũng cần sự cố gắng lớn, hiệu quả công việc có thể giảm sút. Ví dụ một người có thể than phiền rằng rửa mặt và mặc quần áo buổi sáng cũng làm họ kiệt sức và họ cần thời gian nhiều hơn người bình thường gấp 2 lần. Cảm giác mệt mỏi thường tăng lên vào buổi sáng và giảm sút một chút vào buổi chiều.

Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi là rất hay gặp trong giai đoạn trầm cảm chủ yếu. Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng không làm nên trò trống gì. Họ luôn nghĩ rằng mình là kẻ làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội. Thậm chí bệnh nhân có mặc cảm tội lỗi liên quan đến các sai lầm nhỏ trước đây. Nhiều bệnh nhân giải thích một cách sai lầm các hiện tượng thông thường hằng ngày như là khiếm khuyết của họ. Bệnh nhân tự trách mình và không thể thành công, không đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp hoặc quan hệ với mọi người, không hoàn thành nghĩa vụ với gia đình.

Khó suy nghĩ tập trung hoặc ra quyết định. Đây là triệu chứng rất hay gặp khiến bệnh nhân khó chịu và phải đi khám bệnh. Nhiều bệnh nhân than phiền khó suy nghĩ, khó tập trung chú ý vào một việc gì đó bệnh nhân cũng rất khó khăn khi cần đưa ra quyết định, họ cần phải cân nhắc nhiều thời gian với những việc thông thường. Khó tập trung chú ý ở bệnh nhân thể hiện ở những việc đơn giản nhất, không thể đọc được một bài báo ngắn, không nghe hết một bài hát mà bệnh nhân vốn rất yêu thích, không thể xem hết một chương trình ti vi mà trước đây bệnh nhân rất quan tâm. Rối loạn trí nhớ ở bệnh nhân thường là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân có thể quên mình vừa làm gì, trong khi đó, trí nhớ xa (ngày sinh, quê quán, các sự việc xảy ra lâu trong quá khứ…) thì vẫn được duy trì tương đối tốt trong một thời gian dài.

Ý nghĩ muốn chết hoặc hành vi tự sát. Hầu hết bệnh nhân trầm cảm đều có ý nghĩ về cái chết, nặng hơn là họ có ý định tự sát hoặc hành vi tự sát. Lúc đầu họ nghĩ bệnh nặng thế này (mất ngủ, chán ăn, sút cân, mệt mỏi…) thì chết mất. Dần bệnh nhân nghĩ rằng chết đi thì sẽ hết đau khổ. Ý nghĩ này biến thành niềm tin rằng những người thân trong gia đình, cơ quan sẽ khá hơn nếu bệnh nhân chết đi. Từ ý nghĩ tự sát bệnh nhân sẽ có hành vi tự sát. Tự sát có thể gặp ở người bị trầm cảm nhẹ, vừa và nặng. Vì thế không thể chủ quan cho rằng trầm cảm nhẹ thì không cần quan tâm đến ý định tự sát. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể chỉ ra chính xác được bệnh nhân trầm cảm có cố gắng tự sát hay không và khi nào tự sát. Động cơ tự sát của bệnh nhân là mong muốn cao độ chấm dứt một trạng thái cảm xúc đau khổ, sự tra tấn đang hành hạ bệnh nhân trầm cảm.

Các triệu chứng cơ thể. Nhiều bệnh nhân luôn than phiền đau đầu, đau khớp, đau bụng, đau ngực trái…có khi chính các triệu chứng đau này là nguyên nhân khiến bệnh nhân đi khám bệnh. Họ thường đến khám ở bác sĩ chuyên khoa không tâm thần (thần kinh, khớp, tiêu hóa, tim mạch…). Khi không phát hiện được tổn thương thực tổn và điều trị không kết quả, họ lại tìm đến

bác sỹ khác. Qúa trình này có thể diễn ra trong nhiều năm khiến bệnh nhân tốn kém nhiều tiền bạc, thời gian và có thể ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe tinh thần.

1.2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm

Yếu tố di truyền

Mặc dù đã có một số bằng chứng phủ định, nhưng người ta vẫn luôn cho rằng yếu tố di truyền có ảnh hưởng đến nguy cơ bị trầm cảm. Chẳng hạn, McGuffin và cs. (1996) đã tìm ra rằng 46% các cặp sinh đôi cùng trứng cùng bị trầm cảm, trong khi ở các cặp sinh đôi khác trứng, tỉ lệ này là 20%. Tương tự, Wender và cs. (1986) đã tiến hành một nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể: Nhóm thứ nhất là họ hàng của những người con nuôi đã trưởng thành và từng bị trầm cảm. Thứ hai là nhóm con nuôi. Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tìm hiểu các thông số về tuổi tác, tình trạng kinh tế - xã hội và khoảng thời gian những người con nuôi sống với mẹ ruột không bị trầm cảm. So sánh tỉ lệ trầm cảm giữa hai nhóm, thấy rằng ở nhóm khách thể thứ nhất, tỉ lệ bị trầm cảm nhiều gấp 8 lần và đã từng có ý định tự sát nhiều gấp 15 lần, so với họ hàng ruột của chính những người con nuôi này. Không thấy có sự khác biệt giữa các nhóm khi xét đến những mức độ trầm cảm nhẹ.

Cơ chế sinh học

Cả chất norepinephrine và serotonin đều được coi là nguyên nhân gây nên trầm cảm. Ban đầu, người ta đã nghĩ rằng sự giảm nồng độ của một trong 2 chất dẫn truyền thần kinh này có ảnh hưởng đến khí sắc. Ngày nay, quan niệm đơn giản này đã bị những dữ liệu gần đây phủ định. Có vẻ như khí sắc là kết quả của sự tương tác giữa serotonin và norepinephrine. Thậm chí nó có thể là kết quả của sự tương tác giữa hai chất này với các cơ quan khác của não. Ví dụ, Rampello và cs. (2000) đã giải thích rằng khí sắc là kết quả của sự không cân bằng giữa một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm serotonin và norepinephrine, dopamine và acetylcholine. Có thể là serotonin đóng vai trò quá lớn trong việc kiểm soát các cơ quan khác nhau của não, và sự giảm chất này đã phá vỡ hoạt động trong các cơ quan này, dẫn đến trầm cảm. Khu vực não có liên quan chủ yếu đến trầm cảm là hệ viền. Theo mô hình tâm sinh học (psychobiological), các quá trình này xảy ra do tác động của cả các yếu tố tâm lý – xã hội lẫn yếu tố di truyền; do đó, nó đòi hỏi mức độ quan tâm thích đáng của mỗi lĩnh vực, trước khi một giai đoạn trầm cảm diễn ra.

Yếu tố tâm lý – xã hội

Những sang chấn tâm lí – xã hội đã góp phần làm tăng nguy cơ trầm cảm. Tỉ lệ trầm cảm thường thấy tương đối cao ở người nghèo, dân tộc thiểu số và những người có nguồn trợ cấp xã hội ít ỏi (Jenkins et al. 1998). Ở rất nhiều người, một số yếu tố kết hợp với nhau, khiến cho trầm cảm đặc biệt dễ xảy ra. Năm 1978, Brown và Harris đã tiến hành nghiên cứu trên những phụ nữ thuộc tầng lớp lao động. Một nhóm người bao gồm những người có tới 3 con nhỏ hoặc nhiều hơn, thiếu một người bạn gái thân thiết để tâm tình, không có nghề nghiệp bên ngoài và mồ côi cha từ khi còn

rất nhỏ. Nhóm còn lại cũng là những phụ nữ thuộc tầng lớp lao động nhưng có hoàn cảnh ngược lại. Kết quả cho thấy những phụ nữ ở nhóm thứ nhất có khả năng bị trầm cảm cao hơn so với nhóm thứ hai. Những cá nhân túng thiếu về mặt kinh tế có xu hướng trải qua nhiều sự kiện tiêu cực trong cuộc sống hơn là những người có điều kiện kinh tế được cải thiện, và có lẽ nguồn tài chính xã hội dùng để giải quyết những khó khăn của họ cũng ít hơn (House et at. 1991). Nhiều cá nhân thuộc các dân tộc ít người gặp phải tình trạng kinh tế bất lợi. Thêm nữa, họ phải đấu tranh với định kiến và sự hòa nhập với dân tộc chiếm số đông, điều này có thể gây nên stress (Clarke 2000). Những stress cuộc sống mạnh, như ly hôn hay ly thân, có thể gây ra các đợt trầm cảm. Ngược lại, một hệ thống nâng đỡ xã hội tốt có thể bảo vệ cá nhân khỏi căn bệnh này.

Có rất nhiều lời giải đáp khác nhau cho câu hỏi tại sao phụ nữ lại thường bị trầm cảm nhiều hơn nam giới. Thoạt đầu thì điều này bị bỏ qua vì người ta cho rằng đó chỉ là biểu hiện của định kiến, giờ đây đã có chứng cứ thuyết phục hơn, chứng minh rằng, thật sự có sự khác biệt về giới trong tỉ lệ thường thấy của trầm cảm (Weich et al. 1998). Ở khía cạnh xã hội, người ta giải thích rằng phụ nữ ngày nay phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn nhưng lại có chất lượng cuộc sống thấp hơn nam giới. Phụ nữ có xu hướng làm những việc có vị thế thấp; công việc ở công sở và trong gia đình khiến họ bị quá tải (Bird và Rieker, 1999). Điều đó có nghĩa là, khác với nam giới, khi phụ nữ làm xong việc ở cơ quan, vai trò nội trợ đang chờ đợi họ ở nhà, và họ phải tiếp tục làm việc. Phụ nữ cũng dễ phải chịu những áp lực về mặt văn hóa hơn so với đàn ông, bao gồm cả việc phải tuân theo các tư tưởng phương Tây về sự quyến rũ, điều này càng làm tăng thêm khả năng bị stress của họ. Lời giải thích từ khía cạnh tâm lí học, đó là, so với đàn ông, phụ nữ dễ bị quy lỗi lầm cho bản tính cá nhân của họ hơn, do đó, họ càng dễ tự buộc tội và đánh giá thấp bản thân. Thêm vào đó, Holen – Hoeksema (1990) đã lí luận rằng khi đàn ông trải qua những hoàn cảnh có thể dẫn đến trầm cảm, khả năng quên đi những ý nghĩ tiêu cực của họ tốt hơn. Trong khi đó, phụ nữ lại hay để tâm đến hậu quả và nguyên nhân; suy nghĩ này thúc đẩy sự xuất hiện của những ý nghĩ bi quan vốn đã tiềm tàng trong đầu óc họ [10, tr.225-243].

1.2.2.4. Hậu quả của trầm cảm

Trầm cảm nặng (Major Depressive Disorder = MDD) đã trở thành nguyên nhân quan trọng dẫn đến gánh nặng ngân sách sau tự tử và bệnh tim mạch.

Năm 1990, Tổ chức Ngân sách bệnh tật toàn cầu (Global Burden of Diseasee = GBD) xếp các rối loạn trầm cảm hạng nguyên nhân thứ 4 dẫn đến mất ngày công lao động sau các bệnh nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy và các bệnh của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đến năm 2000, các rối loạn trầm cảm lên hạng nguyên nhân thứ 3 của gánh nặng ngân sách toàn cầu [19].

Năm 2010, theo kết quả nghiên cứu của GBD các rối loạn trầm cảm xếp hạng 2 gánh nặng ngân sách. Nghiên cứu đánh giá dựa trên t lệ tử vong và ngày công lao động bị mất có nguyên nhân từ các rối loạn trầm cảm.

Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân rối loạn lưỡng cực (Mood Depressive Disorder=MDD), trầm cảm mức độ nhẹ, kéo dài, rối loạn khí sắc. Các tác giả sử dụng bản DALYs xác định chi phí ngân sách do các rối loạn trầm cảm, cùng với số thời gian (tính bằng năm) không lao động (YLDs) vì bệnh và số năm không làm việc trước đó khi mới mắc bệnh (YLLs) của bệnh nhân. So sánh với chi phí ngân sách do các bệnh khác và do chấn thương, trầm cảm nặng chiếm 8,2% thời gian không lao động (YLDs), xếp thứ 2 nguyên nhân mất khả năng lao động, và xếp thứ 11 trong nguyên nhân dẫn đến gánh nặng ngân sách toàn cầu (DALYs). Các rối loạn khí sắc chiếm 1,4 % YDLs. Theo cách tính của các nhà nghiên cứu, trầm cảm nặng gây mất 16 triệu ngày làm việc, tự tử và bệnh thiếu máu cơ tim chỉ mất 4 triệu ngày. Tính chung, t lệ mất ngày công lao động 3,8 % toàn cầu (DALYs) do các rối loạn trầm cảm [19].

Theo Bs Phạm Văn Trụ - Bệnh viện Tâm Thần Thành phố Hồ Chí Minh, tại Thành phố Hồ Chí Minh, số lần khám của bệnh nhân mắc các rối loạn trầm cảm chiếm 23,1 % số lần bệnh nhân đến khám và điều trị ngoạt trú, trong đó nữ chiếm 68,2 % số liệu 6 tháng đầu năm 2013). Các nhóm thuốc chống trầm cảm hiện nay gần như có đầy đủ như các nước Tây u nhưng giá cả không phải là thấp. Cùng với chi phí đi lại và số ngày không thể làm việc được cũng như chi phí chăm sóc hậu quả của bệnh chắc chắn ảnh hưởng nặng nề tới ngân sách và điều kiện sống gia đình.

1.2.2.5. Biện pháp điều trị trầm cảm

Trị liệu trầm cảm được dựa trên cơ sở tâm lý và sinh học. Trị liệu trên cơ sở tâm lý là tiến trình trong đó bệnh nhân và cố vấn chuyên môn làm giảm bớt rối loạn tâm lý nhấn mạnh vào sự thay đổi là kết quả của sự tương tác giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân. Trái lại liệu pháp dựa trên cơ sở sinh học là dựa vào thuốc và các tiến trình y khoa khác để cải thiện chức năng hoạt động tâm lý.

Tâm lý liệu pháp

Điều trị tâm lý động học xuyên vào vô thức: Dựa vào giả thuyết đầu tiên của S. Freud cho rằng nguồn gốc hành vi bất thường là những xung đột trong quá khứ chưa giải quyết và sự lo âu trước khả năng các xung tiềm thức không thể chấp nhận sẽ đi vào phần nhận thức trong suy nghĩ của con người. Để bảo vệ chống lại khả năng không mong muốn này cá nhân sử dụng cơ chế phòng thủ. Tiếp cận này giúp bệnh nhân đương đầu với những xung đột bằng cách mang chúng ra khỏi vô thức trong suy nghĩ đưa vào nhận thức tham gia vào cuộc sống hàng ngày hiệu quả hơn.

Phân tâm học điều trị đựợc sử dụng kỹ thuật liên tưởng tự do yêu cầu bệnh nhân giải tỏa những gì đang hiện ra trong tâm trí, không chú ý đến sự vô nghĩa hay không liên quan gì đến cụ thể. Liên tưởng tự do thực sự trình bày những manh mối quan trọng về tiềm thức giúp nhà tâm lý phân tích tiềm thức của bệnh nhân. Một công cụ quan trọng khác là giải thích giấc mơ của bệnh nhân để tìm ra manh mối rối loạn hiện có.

Tiếp cận điều trị qua hành vi: Không nhất thiết phải đào sâu vào quá khứ hay tâm thần của con người. Họ xem rối loạn bất thường là hành vi cần sửa đổi. Thay đổi hành vi con người để cho phép họ hoạt động.

Tiếp cận nhận thức: Nếu cho rằng nhận thức thích nghi không tốt là tâm điểm của hành vi bất thường thì cách điều trị trực tiếp dạy cho con người cách suy nghĩ và thích nghi mới. Với mục đích thay đổi nhận thức không đúng của con người về thế giới và chính mình xây dựng lại hệ thống niềm tin của con người thành một tập hợp quan điểm thực tế và hợp lý.

Liệu pháp nhân văn: Trong đó giả định là con người kiểm soát hành vi của mình có thể lựa chọn về đời sống và cơ bản chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề riêng của mình. Xem bản thân họ là người hướng dẫn hay người tạo điều kiện dẫn dắt con người đi đến việc thừa nhận chính mình và thay đổi dần đến quan điểm họ nghĩ về bản thân nhiều hơn.

Điều trị bằng hóa dược

Các thuốc chống trầm cảm truyền thống (chống trầm cảm ba vòng). Chống trầm cảm an dịu (amitriptylin) đối với các triệu chứng kích động, lo âu, mất ngủ (trung bình 100mg/ngày).

Chống trầm cảm kích thích (imipramin) đối với các triệu chứng ức chế vận động và tâm duy (trung bình 100mg/ngày).

Có thể dùng đường uống, trường hợp nặng có thể dùng đường tiêm bắp, trong 1 - 2 tuần đầu, sau đó tiếp tục bằng đường uống.

Thuốc chống trầm cảm thế hệ mới (không 3 vòng, không IMAO)

Stablon, Athymil, Prozac…liều lượng trung bình khác nhau tùy loại thuốc và tùy từng bệnh

nhân

Các thuốc này tác dụng phụ ít và nhẹ, dùng cho những bệnh nhân nạp kém các thuốc chống

trầm cảm 3 vòng.

Nói chung các thuốc chống trầm cảm đều phát huy tác dụng chậm từ (4-6 tuần). Trong thời gian này cần theo dõi chặt chẽ đề phòng tự sát hay chuyển pha sang hưng cảm.

Các thuốc hướng thần kết hợp

Nếu các triệu chứng lo âu kích động vẫn kéo dài, có thể cho thêm các thuốc giải lo âu (benzodiazespin) hay thần kinh an dịu (levomespromazin).

Điều trị dự phòng trầm cảm tái phát

Để tránh tái phát, trầm cảm cần được điều trị trong nhiều tháng. Riêng đối với bệnh hung trầm cảm cần điều trị dự phòng bằng các thuốc Lithium, hoặc Depamide, hoặc Tegretol.

Điều trị đặc hiệu: Sốc điện

Các chỉ định chính:

- Trầm cảm có ý muốn và hành vi tự sát

- Trầm cảm cần điều trị nhanh (không chờ được tác dụng các thuốc chống trầm cảm)

- Trầm cảm chống chỉ định hay kháng lại các thuốc chống trầm cảm [18, tr.87-89].

1.2.2.6. Phòng, chống trầm cảm ở cộng đồng

Theo hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới về phòng chống các bệnh tâm thần nói chung, Việt Nam đã xây dựng mô hình phòng chống bệnh tâm thần dựa vào cộng đồng, trong đó có bệnh trầm cảm. Trọng tâm của dự án này là lồng ghép công tác phát thuốc, theo dõi chăm sóc bệnh bệnh tâm thần vào hoạt động y tế cơ sở. Mô hình này đã được đánh giá lại cả về hiệu quả và cách đề cập. Mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần nói chung và đối với bệnh trầm cảm nói riêng tại cộng đồng:


Can thiệp môi trường xã hội

Hóa dược trị liệu

Tâm lý trị liệu

Điều kiện thực hiện quản lý và điều trị trầm cảm tại cộng đồng


Bệnh nhân được chẩn đoán sớm và gửi đi khám chuyên khoa xác định bệnh sớm. Phòng khám chuyên khoa có đủ khả năng thực hiện chẩn đoán xác định và đưa ra khuyến cáo cho hai hình thái trị liệu: tâm lý trị liệu, hóa trị liệu, đồng thời đưa ra khuyến nghị cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu thực hiện chăm sóc bệnh nhân tại cộng đồng và tìm hiểu can thiệp cải thiện thực hiện chăm sóc bệnh nhân tại cộng đồng và tìm hiểu can thiệp cải thiện môi trường xã hội của bệnh nhân. Hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu được trang bị kiến thức phát hiện sớm và được hướng dẫn thực hành trị liệu theo tài liệu của WHO (1998), “Chăm sóc sức khỏe tâm thần ở tuyến cơ sở”; kết hợp với gia đình theo dõi bệnh nhân, đồng thời, có kiến thức và kỹ năng xã hội tiến hành tìm hiểu về yếu tố môi trường xã hội để đưa ra biện pháp thực hiện cải thiện môi trường xã hội thuận lợi cho cải thiện sức khỏe tâm trí của bệnh nhân. Hệ thống thông tin hai chiều được thực hiện giữa tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu và cơ sở chuyên khoa. Cộng đồng hiểu được lợi ích của mối quan hệ xã hội và sức khỏe tâm trí [16, tr.15-40]; [18, tr.1-6].

Nội dung công tác chăm sóc và phục hồi chức năng bệnh nhân trầm cảm tại cộng đồng: (1) Chấp nhận trầm cảm là một căn bệnh thực sự; (2) Nhận biết và công nhận các triệu chứng của trầm cảm; (3) Cần hiểu về tiến triển của bệnh trầm cảm và các giai đoạn điều trị; (4) Dẹp bỏ các ý nghĩ ưu phiền của gia đình, bệnh nhân và xã hội về trầm cảm; (5) Cần hiểu về nguyên nhân của trầm cảm; (6) Chấp nhận ý tưởng điều trị; (7) Tìm hiểu về thuốc chống trầm cảm; (8) Hiểu biết về tâm lý liệu pháp; (9) Biết cách làm giảm nguy cơ tái phát; (10) Biết cách đối mặt với ý tưởng tự sát; (11) Người bị trầm cảm tự rèn luyện hàng ngày, ghi chép các hoạt động vào một bảng theo dõi để xác định khả năng phục hồi các hoạt động [2, tr.3-14]; [5, tr.98-113].

1.3. Một số đặc điểm tâm lý xã hội của sinh viên

1.3.1. Khái niệm sinh viên

Ngày đăng: 17/05/2024