khoa Lịch sử là 46% là có tỉ lệ sinh viên nhầm lẫn cao nhất. Điều đó có nghĩa là một bộ phận lớn sinh viên, đặc biệt là sinh viên các khối ngành Cơ khí, Kế toán, Lịch sử có nhận thức chưa đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm.
Như vậy, sinh viên khoa Tâm lý - ĐH KHXH & NV, khoa Y Đa khoa - ĐH Y Hà Nội và khoa Tâm lý - giáo dục học - Học viện Quản lý giáo dục có tỉ lệ sinh viên nhận thức đúng về bản chất của rối loạn trầm cảm cao hơn so với các khối ngành còn lại, tuy nhiên con số này là chưa nhiều.
3.3. Thực trạng nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm
Trầm cảm có các biểu hiện đa dạng, phong phú tuy nhiên cũng tương đối đặc trưng và có khả năng nhận biết sớm thông qua các biểu hiện bề ngoài. Để nghiên cứu nhận thức của sinh viên về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm, chúng tôi đã sử dụng câu hỏi số 5 (Câu 5 - Phụ lục 01), kết quả thu được cho thấy: Ở nhóm “biểu hiện cảm xúc” có ĐTB = 4,07; Ở nhóm “biểu hiện hành vi” là 3,83; Ở nhóm “biểu hiện về nhận thức” là 3,8 và nhóm “biểu hiện cơ thể” của rối loạn trầm cảm là 3,54 (Câu 5 – Phụ lục 05). Tức là, sinh viên có nhận thức tốt về nhóm các biểu hiện nhận thức, biểu hiện cảm xúc và biểu hiện hành vi của rối loạn trầm cảm và có nhận thức khá ở nhóm biểu hiện cơ thể của rối loạn trầm cảm. Kết quả được thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3.3: Nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm
Biểu hiện | ĐTB | ĐLC | |
Biểu hiện về nhận thức | Không phân biệt được giới tính của mình. | 3,89 | 1,32 |
Luôn cho rằng mình là người giỏi nhất. | 3,77 | 1,04 | |
Lúc nào cũng nghĩ rằng mình đang mắc bệnh gì đó. | 2,94 | 1,29 | |
Có ý nghĩ tự sát | 3,87 | 1,02 | |
Nghĩ rằng mọi người không thích mình | 3,83 | 1,12 | |
Luôn thấy mình không có tương lai | 3,65 | 0,93 | |
Luôn cảm thấy mình không xứng đáng | 3,71 | 0,98 | |
Luôn nghĩ mình vô dụng | 3,73 | 1,03 | |
Giảm sút tính tự trọng | 3,35 | 1,37 | |
Luôn nghĩ rằng mình có lỗi | 3,66 | 1,13 | |
Cho rằng mình kém cỏi | 3,75 | 1,15 | |
ĐTB chung | 3,80 | ||
Biểu hiện về cảm xúc | Lạc quan, yêu đời một cách thái quá | 3,95 | 1,26 |
Tăng hứng thú tình dục | 3,77 | 1,21 | |
Luôn muốn mình trở thành trung tâm của mọi sự chú ý | 3,97 | 1,27 | |
Luôn bi quan trong cuộc sống | 4,17 | 1,13 | |
Luôn lo lắng một cách thái quá | 3,82 | 1,20 | |
Mất mọi quan tâm thích thú | 3,75 | 1,02 | |
Chán ghét cuộc sống | 4,19 | 1,14 | |
Vẻ mặt u sầu, chán nản | 411 | 0,99 | |
Có nhiều mâu thuẫn nội tâm | 4,09 | 1,08 | |
Không có bất kì sở thích nào | 3, 23 | 1,27 |
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Đặc Điểm Tâm Lý Xã Hội Của Sinh Viên
- Các Tiêu Chí Nghiên Cứu Nhận Thức Của Sinh Viên Về Rối Loạn Trầm Cảm
- Thực Trạng Các Nguồn Thông Tin Của Sinh Viên Về Trầm Cảm
- Nhận Thức Của Sinh Viên Về Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rối Loạn Trầm Cảm
- Thực Trạng Nhận Thức Của Sinh Viên Về Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rối Loạn Trầm Cảm.
- Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm - 9
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Biểu hiện | ĐTB | ĐLC | |
Nét mặt thờ ơ, vô cảm | 4,08 | 1,02 | |
Giảm sút sự tự tin | 4,20 | 0,89 | |
Chán ghét bản thân | 3,94 | 1,24 | |
Giảm hứng thú tình dục | 2,64 | 1,32 | |
ĐTB chung | 4,07 | ||
Biểu hiện hành vi | Có những hành vi lôi cuốn tình dục không thích hợp | 3,62 | 1,32 |
Nói rất nhiều và nói linh tinh | 3,48 | 1,32 | |
Không tham gia các hoạt động tập thể | 3,96 | 1,19 | |
Hay nói chuyện một mình | 3,63 | 1,19 | |
Thu mình, ngại giao tiếp | 4,39 | 1,28 | |
Bỏ bê việc chăm sóc bản thân | 3,89 | 1,14 | |
Có hành vi tự hủy hoại bản thân | 4,00 | 1,37 | |
Giảm năng lượng, giảm hoạt động. | 3,93 | 1,10 | |
Bận tâm vì những chuyện nhỏ nhặt | 2,75 | 1,41 | |
Giảm sút sự tập trung và sự chú ý | 3,94 | 1,06 | |
Xa lánh mọi người | 4,27 | 1,10 | |
Có khuynh hướng bạo lực, thích gây sự. | 3,19 | 1,14 | |
Thường xuyên gào thét ầm ĩ | 3,24 | 1,33 | |
Từ bỏ những sở thích cũ | 2,91 | 0,97 | |
ĐTB chung | 3,83 | ||
Biểu hiện cơ thể | Sút cân | 3,65 | 1,20 |
Đau dạ dày | 2,48 | 1,06 | |
Đau đầu | 3,57 | 1,11 | |
Ăn nhiều | 2,55 | 1,27 | |
Chán ăn | 3,65 | 1,15 | |
Mất ngủ | 3,96 | 1,13 | |
Mệt mỏi, cơ thể suy nhược | 4,04 | 1,33 | |
ĐTB chung | 3,54 |
Qua bảng trên ta thấy, trong nhóm “biểu hiện về nhận thức” thì có một số biểu hiện có mức ĐTB thuộc mức tương đối cao như: Không phân biệt được giới tính của mình; Có ý nghĩ tự sát; Nghĩ rằng mọi người không thích mình; Luôn cho rằng mình là người giỏi nhất; Luôn nghĩ mình vô dụng; Luôn cảm thấy mình không xứng đáng; Cho rằng mình kém cỏi. Điều đó cho thấy, sinh viên có nhận thức tốt về các biểu hiện này, trong đó có cả những biểu hiện của rối loạn trầm cảm và không phải của rối loạn trầm cảm. Tức là sinh viên có sự nhận thức tương đối rõ rệt, chắc chắn và không nhầm lẫn về các “biểu hiện nhận thức” của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, đáng chú ý có biểu hiện Lúc nào cũng nghĩ rằng mình đang mắc bệnh gì đó có ĐTB thấp nhất (ĐTB = 2,94) thuộc mức độ tương đối thấp, có nghĩa là sinh viên có nhận thức kém về biểu hiện này.
Ở nhóm “biểu hiện cảm xúc” thì biểu hiện Giảm sút sự tự tin được sinh viên nhận thức tốt nhất, ĐTB thuộc mức độ tương đối cao (ĐTB = 4,2) tức là sinh viên có nhận thức tốt về biểu hiện
này của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, biểu hiện Không có bất kì sở thích nào (ĐTB = 3,23) và biểu hiện giảm hứng thú tình dục có ĐTB = 2,64, ĐTB thấp nhất trong nhóm biểu hiện cảm xúc và đều thuộc mức độ tương đối thấp. Còn lại ở các đặc điểm khác thì sinh viên đều có nhận thức ở mức độ tốt (ĐTB thuộc mức độ tương đối cao). Tiếp theo, ở nhóm “biểu hiện về hành vi” thì biểu hiện thu mình, ngại giao tiếp (ĐTB = 4,39) và xa lánh mọi người (ĐTB = 4,27) có ĐTB cao nhất. Hai biểu hiện này đều có ĐTB thuộc mức độ cao, tức là sinh viên có nhận thức rất tốt về hai biểu hiện này của rối loạn trầm cảm. Mặt khác, biểu hiện Từ bỏ những sở thích cũ (ĐTB = 2,91) và bận tâm vì những chuyện nhỏ nhặt (ĐTB = 2,75) là hai biểu hiện có ĐTB thấp nhất trong nhóm “biểu hiện hành vi” và đều thuộc mức độ tương đối thấp.
Đồng thời ở nhóm “biểu hiện về cơ thể” với các biểu hiện như: “sút cân, đau dạ dày, đau đầu, ăn nhiều, chán ăn, mất ngủ, mệt mỏi, cơ thể suy nhược” là nhóm có ĐTB thấp nhất (ĐTB = 3,54). Trong đó đáng chú ý có biểu hiện đau dạ dày (ĐTB = 2,48) thuộc mức độ thấp, tức là sinh viên có nhận thức rất kém về biểu hiện này; ngoài ra biểu hiện Ăn nhiều (ĐTB = 2,55) cũng có ĐTB ở mức độ tương đối thấp. Cao nhất trong nhóm “biểu hiện cơ thể” là biểu hiện mệt mỏi, cơ thể suy nhược với ĐTB là 4,04 và mất ngủ (ĐTB = 3,96) thuộc mức độ tương đối cao.
Qua đây có thể nhận thấy rằng, hầu hết sinh viên có nhận thức tốt và khá tốt về những biểu hiện về nhận thức; biểu hiện về cảm xúc và biểu hiện về hành vi nhưng lại có nhận thức chưa tốt về các biểu hiện về cơ thể của người mắc rối loạn trầm cảm.
Khi chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, bạn N.V.Q. sinh viên khoa Cơ khí - ĐH Bách khoa Hà Nội chia sẻ rằng “trầm cảm là bệnh về thần kinh mà chị, liên quan gì đến ăn uống và dạ dày ạ, chẳng lẽ đau dạ dày là bị trầm cảm?”, đây là một thực tế cho thấy sinh viên có sự nhận thức chưa đúng đắn về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm, đặc biệt là các biểu hiện liên quan đến sức khỏe thể chất.
Phân tích cụ thể hơn nhận thức của sinh viên theo từng khoa về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm, kết quả cho thấy như sau:
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
Bh nhận thức Bh cảm xúc Bh hành vi Bh cơ thể
Kế toán Tâm lý Lịch sử Cơ khí Đa khoa Tâm lý
GD
Biểu đồ 3.2: Nhận thức của sinh viên theo từng khoa về các nhóm biểu hiện của rối loạn trầm cảm
Qua biểu đồ 3.2 ta nhận thấy rằng sinh viên ở cả 6 khoa đều có nhận thức về biểu hiện cảm xúc của rối loạn trầm cảm là cao nhất. Trong đó, sinh viên khoa Tâm lý có ĐTB ở “biểu hiện về cảm xúc” của rối loạn trầm cảm cao nhất (ĐTB = 4,2), điều đó cho thấy sinh viên khoa Tâm lý có nhận thức tốt về những biểu hiện cảm xúc của rối loạn trầm cảm. Ở các khoa còn lại, mức ĐTB cũng ở mức độ tương đối cao (Lịch sử ĐTB = 4,12; Tâm lý giáo dục ĐTB = 4,10; Kế toán ĐTB = 4,03; Cơ khí ĐTB = 3,98) (câu 5 – phụ lục 5), có nghĩa là sinh viên các khoa còn lại cũng có nhận thức tốt về các biểu hiện cảm xúc của rối loạn trầm cảm. Tiếp đó, ở nhóm “biểu hiện về nhận thức” và “biểu hiện về hành vi” của rối loạn trầm cảm cũng được sinh viên các khoa nhận thức ở mức khá và tốt. Trong đó tại nhóm “biểu hiện về hành vi” thì sinh viên khoa Lịch sử có điểm số trung bình cao nhất (3,95) và thấp nhất là sinh viên khoa Y Đa khoa (3,64). Đồng thời, ở nhóm “biểu hiện về mặt nhận thức” thì sinh viên khoa Tâm lý giáo dục có điểm trung bình cao nhất (3,92) và thấp nhất là khoa lịch sử (3,69) nhưng đều thuộc mức tương đối cao. Bên cạnh đó thì đáng chú ý là ở nhóm “biểu hiện cơ thể” của rối loạn trầm cảm thì hầu hết tất cả các khoa đều có ĐTB thấp hơn so với các nhóm biểu hiện còn lại. Trong đó, sinh viên ở khoa Kế toán (ĐTB = 3,34); Y Đa khoa (ĐTB = 3,34); Cơ khí (ĐTB = 3,39) và Tâm lý giáo dục (ĐTB = 3,63) đều thuộc mức độ trung bình, tức là sinh viên chỉ có nhận thức ở mức khá về nhóm biểu hiện này của rối loạn trầm cảm, còn lại khoa Lịch sử (ĐTB = 3,71) và Tâm lý (ĐTB = 3,8) thì ĐTB thuộc mức độ tương đối cao (Câu 5 – phụ lục 05).
Trong quá trình tìm hiểu nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm, chúng tôi đã đưa vào 10 item không phải là biểu hiện của rối loạn trầm cảm nhằm tìm hiểu sự vững chắc trong kiến thức của sinh viên về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm, kết quả thu được là ĐTB của nhóm biểu hiện đúng (ĐTB = 3,85) có cao hơn một chút so với ĐTB của nhóm biểu hiện sai (ĐTB
= 3,75) đều thuộc mức độ tương đối cao. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt nhỏ trong nhận thức của sinh viên các khoa về hai nhóm “biểu hiện đúng” và nhóm “biểu hiện sai” này. Kết quả cụ thể được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.4: Nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm (phân chia theo nhóm biểu hiện đúng – sai)
Khoa | Mức ý nghĩa | ||||||
Kế toán | Tâm lý | Lịch sử | Cơ khí | Y Đa khoa | Tâm lý GD | ||
Nhận thức về các biểu hiện đúng | 3,72 | 4,07 | 3,93 | 3,69 | 3,74 | 3,92 | .195 |
Nhận thức về các biểu hiện sai | 4,00 | 3,38 | 3,71 | 4,00 | 3,59 | 3,83 | .000 |
Qua bảng số liệu trên ta thấy sinh viên khoa Kế toán; khoa Tâm lý giáo dục; khoa Lịch sử và khoa Cơ khí đều có nhận thức tốt về nhóm “Nhận thức về các biểu hiện đúng” và nhóm “nhận
thức về các biểu hiện sai” của rối loạn trầm cảm (ĐTB đều thuộc mức độ tương đối cao). Riêng khoa Tâm lý và khoa Đa khoa thì sinh viên đều có nhận thức tốt về nhóm “nhận thức về các biểu hiện đúng” nhưng lại chỉ có nhận thức khá về nhóm “nhận thức về các biểu hiện sai” của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên với mức ý nghĩa p>0,05 cho thấy không có sự khác biệt giữa các khoa trong nhận thức về nhóm biểu hiện đúng. Ở nhóm “nhận thức về các biểu hiện sai” có sự khác biệt lớn giữa các khối trường khi mức ý nghĩa p < 0,001.
Như vậy, sinh viên khoa Tâm lý và Y đa khoa vẫn còn nhầm lần về một số những biểu hiện của rối loạn trầm cảm với những biểu hiện của một số hội chứng tâm lý khác.
Tóm lại, hầu hết sinh viên các khoa được nghiên cứu đều có nhận thức khá và tốt về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, sinh viên khoa Tâm lý – ĐH KHXH & NV và khoa Y đa khoa – ĐH Y HN vẫn còn nhầm lẫn về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm và biểu hiện của các bệnh tâm lý khác. Như vậy, sinh viên tuy có nhận thức tốt và khá tốt về các biểu hiện của rối loạn trầm cảm nhưng chưa đồng đều ở từng biểu hiện cụ thể.
3.4. Thực trạng nhận thức của sinh viên về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm
Để nghiên cứu nhận thức của sinh viên về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm, chúng tôi đã sử dụng câu hỏi: Theo bạn, những nguyên nhân nào có thể dẫn đến trầm cảm?, kết quả chúng tôi thu được như sau:
18.5%
Nguyên nhân tâm lý
3.3%
8.7%
Nguyên nhân sinh học
69.5%
Cả nguyên nhân tâm lý và sinh
học
Không biết
Biểu đồ 3.3: Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm
Từ biểu đồ trên ta thấy có 69,5% sinh viên cho rằng nguyên nhân là do các yếu tố tâm lý. Cụ thể, thông tin từ bảng hỏi cho thấy đa số sinh viên đã kể ra các nguyên nhân tâm lý như: áp lực cuộc sống; cú sốc tâm lý; gia đình mâu thuẫn; bị bạo lực tẩy chay; bị mọi người xa lánh; thất bại trong cuộc sống; gia đình không quan tâm; căng thẳng về học tập... Bên cạnh đó chỉ có 52 sinh
viên (chiếm 8,7%) cho rằng trầm cảm có nguyên nhân từ nguồn gốc sinh học, cụ thể các ý kiến của sinh viên chủ yếu như: bẩm sinh; bị tổn thương não bộ; thay đổi hooc môn... Rất đáng tiếc rằng chỉ có rất ít sinh viên (3,3%) cho rằng nguyên nhân của rối loạn trầm cảm xuất phát từ cả nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân sinh học, trong đó các ý kiến chủ yếu cho rằng: Áp lực tâm lý và di truyền; Mắc bệnh gì đó và suy nghĩ bi quan; Não bị tổn thương và gặp cú sốc tâm lý…. Bên cạnh đó, có tới 18,5% sinh viên trả lời là không biết nguyên nhân của rối loạn trầm cảm.
Tìm hiểu nhận thức của sinh viên từng khoa về nguyên nhân rối loạn trầm cảm, chúng tôi thu được bảng sau:
Bảng 3.5: Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến trầm cảm
Khoa | ||||||||||||
Kế toán | Tâm lý | Lịch sử | Cơ khí | Y Đa khoa | Tâm lý giáo dục | |||||||
Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | Tần số | Tỉ lệ (%) | |
Tâm lý | 66 | 66,0 | 72 | 72,0 | 68 | 68,0 | 57 | 57,0 | 78 | 78,0 | 76 | 76,0 |
Sinh học | 9 | 9,0 | 7 | 7,0 | 4 | 4,0 | 7 | 7,0 | 20 | 20,0 | 5 | 5,0 |
Cả tâm lý và sinh học | 7 | 7,0 | 2 | 2,0 | 0 | 0 | 6 | 6,0 | 0 | 0 | 5 | 5,0 |
Không biết | 18 | 18,0 | 19 | 19,0 | 28 | 28,0 | 30 | 30,0 | 2 | 2,0 | 14 | 14,0 |
Qua bảng số liệu trên ta thấy, đa số sinh viên các khoa đều cho rằng rối loạn trầm cảm có nguyên nhân từ các yếu tố tâm lý. Trong đó, ở khoa Y đa khoa có tỉ lệ sinh viên đưa ra ý kiến này là cao nhất (78%), thấp nhất là khoa Cơ khí với 57%. Mặt khác, khoa Y Đa khoa cũng có tỉ lệ cao nhất sinh viên cho rằng nguyên nhân của rối loạn trầm cảm là do các yếu tố sinh học (20%); thấp nhất là khoa Lịch sử với 4%. Qua đây có thể thấy, vẫn còn rất nhiều sinh viên các khoa, đặc biệt là khoa Y Đa khoa chưa có nhận thức đầy đủ về nguyên nhân dẫn đến rối loạn trầm cảm. Và cũng chính khoa Lịch sử và khoa Y Đa Khoa không có sinh viên nào cho rằng rối loạn trầm cảm có nguyên nhân từ cả yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý, điều này cho thấy trong tổng số 100 sinh viên khoa Lịch sử và 100 sinh viên khoa Y Đa khoa được nghiên cứu điều tra thì không có một sinh viên nào có nhận thức đầy đủ về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm. Hầu hết các sinh viên chỉ cho rằng bệnh này chỉ xuất phát từ một nguyên nhân, hoặc là do yếu tố tâm lý hoặc là do yếu tố sinh học. Tuy nhiên, có thể thấy ở khoa Y Đa khoa chỉ có 2% trả lời là “không biết” về nguyên nhân gây rối loạn trầm cảm (chiếm tỉ lệ ít nhất). Còn khoa Lịch sử và Cơ khí lại có sinh viên “không biết” về nội dung này chiếm tỉ lệ cao nhất (28% và 30%).
Như vậy, kết quả cho thấy đa số sinh viên có nhận thức chưa đầy đủ về nguyên nhân của trầm cảm. Hầu hết các bạn đều cho rằng trầm cảm có nguyên nhân là do các yếu tố tâm lý tác động,
rất ít bạn biết đến nguyên nhân sinh học của căn bệnh này. Chỉ có một bộ phận rất nhỏ sinh viên nhận thức được đầy đủ nguyên nhân của trầm cảm nhưng các ý kiến đưa ra cũng chỉ chung chung theo suy đoán cá nhân. Đặc biệt, có tới 111/600 sinh viên không có sự hiểu biết gì về nguyên nhân dẫn đến rối loạn trầm cảm.
Để tìm hiểu thêm nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi: Theo bạn, những yếu tố sau đây có ảnh hưởng như thế nào đến rối loạn trầm cảm (câu 7 – phụ lục 01), kết qủa cho thấy sinh viên có nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng thuộc “nhóm yếu tố tâm lý cá nhân” có ĐTB cao nhất (3,69), sau đó đến “nhóm yếu tố sinh học” (ĐTB = 3,55) đều thuộc mức độ tương đối cao, điều đó có nghĩa là sinh viên ở các khoa đều có nhận thức tốt về các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm thuộc hai nhóm yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý cá nhân. Riêng “nhóm yếu tố tâm lý xã hội” có ĐTB = 3,33 thuộc mức độ trung bình, tức là sinh viên có chỉ nhận thức ở mức khá về những yếu tố ảnh hưởng thuộc nhóm này (câu 7 – phụ lục 04).
Cụ thể, trong “nhóm yếu tố sinh học” thì yếu tố thừa chất dinh dưỡng có ĐTB cao nhất (ĐTB = 3,81) thuộc mức độ tương đối cao và thấp nhất là yếu tố thiếu một số chất dẫn truyền thần kinh (ĐTB = 2,82) thuộc mức độ tương đối thấp. Đáng chú ý ở nhóm “yếu tố tâm lý xã hội” thì một số yếu tố có ĐTB ở mức độ cao như: Mâu thuẫn trong gia đình (ĐTB = 4,16); Thiếu quan tâm từ gia đình (ĐTB = 4,08), tức là sinh viên được nghiên cứu có nhận thức rất tốt về các yếu tố ảnh hưởng này. Bên cạnh đó thì một số yếu tố lại có ĐTB tương đối thấp: Gia đình khó khăn về kinh tế (ĐTB = 2,93); Tiếp xúc với người trầm cảm quá nhiều (ĐTB = 2,8) và đặc biệt có yếu tố Gia đình quá chiều chuộng (ĐTB = 2,51) thuộc mức độ thấp, tức là sinh viên có nhận thức kém về yếu tố này. Còn lại ở nhóm “yếu tố tâm lý cá nhân” thì có yếu tố Áp lực học tập (ĐTB = 3,97); Nghiện internet (ĐTB = 3,67) là thuộc mức độ tương đối cao, còn lại các yếu tố khác đều có ĐTB ở mức độ trung bình. Điều đó cho thấy ở nhóm “yếu tố tâm lý cá nhân” sinh viên đều có nhận thức khá và tốt về các yếu tố ảnh hưởng trong nhóm này.
Phân tích cụ thể nhận thức của sinh viên các khoa về các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm cho thấy: trong “nhóm yếu tố tâm lý cá nhân” thì sinh viên khoa Lịch sử có ĐTB cao nhất (3,81) và sinh viên khoa Tâm lý giáo dục có ĐTB thấp nhất (3,58) nhưng đều thuộc mức độ tương đối cao. Ở “nhóm yếu tố sinh học” thì ngoài sinh viên khoa Lịch sử (ĐTB = 3,36); Y đa khoa (ĐTB = 3,46); Tâm lý (ĐTB = 3,48) có nhận thức ở mức độ khá thì các khoa còn lại đều có ĐTB thuộc mức tương đối cao, tức là có nhận thức tốt về các yếu tố thuộc nhóm này. Ngược lại, ở “nhóm yếu tố tâm lý xã hội” thì tất cả các khoa đều có ĐTB thuộc mức độ trung bình, tức là sinh viên các khoa được nghiên cứu chỉ có nhận thức ở mức khá về các yếu tố ảnh hưởng thuộc “nhóm