Một Số Nguyên Nhân Trầm Cảm Ở Người Lớn

hơn...tuy nhiên vẫn có những lúc nói năng luyên thuyên, mất tự chủ. Thân chủ dự định sẽ đi học trở lại trong thời gian tới.

Trong tiến trình trị liệu NVXH cũng gặp không ít khó khăn, trong các bước như: thu thập thông tin, lên kế hoạch trị liệu, cũng như thực hiện kế hoạc trị liệu...Bởi có những lúc H và gia đình H không chịu hợp tác, tránh né, không muốn nhắc lại vấn đề đã xảy ra trong quá khứ ( ví dụ: không muốn nhắc đến bố H...)

Bước 7: Kết thúc hoặc tiếp tục ca

Tuy ca điều trị đã đạt được một số kết quả ban đầu, nhưng tình trạng của thân chủ vẫn chưa ổn định. Một số mục tiêu trong kế hoạch trị liệu vẫn chưa thực hiện. Chính vì vậy vẫn phải tiếp tục trị liệu cho thân chủ trong thời gian tới.

II. Trầm cảm ở người lớn


1. Một số nguyên nhân trầm cảm ở người lớn


Thất nghiệp, đáng lưu ý là đối với phụ nữ, cũng tạo nên sự rủi ro cao hơn về trầm cảm, với điều kiện có việc làm đầy đủ lại được xem là yếu tố bảo vệ rất quan trọng;

Là thành viên của các nhóm xã hội thấp hơn (dưới 3) lại gắn liền với những tỷ lệ cao hơn về sự trầm cảm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Có nhà cửa có tương quan với tỷ lệ về trầm cảm, đối với những ai thuê nhà thì tỷ lệ này cao hơn

Thời gian học tập càng nhiều càng có khả năng làm giảm những rủi ro về trầm cảm, đặc biệt là đối với nam giới

Công tác xã hội trong lĩnh vực sức khoẻ tâm thần - 16

Tỷ lệ trầm cảm cao được nhìn nhận ở đô thị hơn nông thôn


Các tỷ lệ trầm cảm được xem là cao hơn giữa những cá nhân vô gia cư, tỷ lệ này khoảng 25% với những người sống ở các nhà nghỉ, căn hộ, còn với những người vô gia cư, tỷ lệ lên tới 60%

Những người tìm kiếm sự cứu tế lại là nhóm có nhiều các yếu tố rủi ro hơn


Giống như nhiều số liệu thống kê từ các cuộc khảo sát liên khu vực, nghĩa là với những dữ liệu được thu thập ở một thời điểm nào đó, chúng ta không thể gán những nguyên nhân về mối quan hệ giữa các bối cảnh xã hội được xác định như trên và sự trầm cảm. Cụ thể là với một số người thực hành cần nhận thức được về những ảo vọng sinh thái, nghĩa là đưa ra những bằng chứng về các nhóm xã hội và các cộng đồng, áp dụng chúng

một cách cơ học với các cá nhân. Một số bậc cha mẹ thất nghiệp và đơn độc sống ở các khu nhà thuê không bị trầm cảm nhưng kiến thức từ nghiên cứu dựa trên mối quan hệ với các nhóm có những rủi ro sẽ làm cho người thực hành cảm nhận vấn đề nhạy cảm liên quan đến các nhân tố được xem là quan trọng đối với các trường hợp cá nhân. Hơn nữa, cũng có những bằng cứ và lý do về mặt lý thuyết để xem xét một số bối cảnh xã hội được xem là có vấn đề nhân quả về sự trầm cảm. Nghiên cứu của Brown và Harris (1987) về các nguyên nhân của trầm cảm đối với những phụ nữ tầng lớp lao động cũng chỉ cho thấy những nhân tố áp lực xã hội tạo ra sự tổn thương liên quan đến sự trầm cảm mà sau đó ngày một tăng cường bởi một sự kiện cuộc sống mang tính tiêu cực.

2. Ý nghĩa xã hội trong điều trị trầm cảm


Những nhân viên xã hội cần biết, việc hầu hết mọi người trải nghiệm qua trầm cảm sẽ được phục hồi trong khoảng thời gian 6 tháng, một nửa số họ sẽ không lặp lại nữa. Mặc dù vậy, điều này có thể không làm giảm đi những rủi ro có thể hiện ra khi một cá nhân bị trầm cảm, cũng không có những khác biệt đáng kể theo quá trình bị trầm cảm giữa các cá nhân. Có khoảng 50% người có các vấn đề trầm cảm diễn ra lặp đi lặp lại cũng có khả năng trầm cảm xảy ra quay trở lại, khoảng 70% có trầm cảm xảy ra lần hai và khoảng 90% xảy ra lần ba (Kupfer 1991). Các cá nhân sống trải qua những vấn đề trầm cảm ở giai đoạn đầu cuộc sống đều có những khả năng xảy ra lặp lại cao hơn với các vấn đề sức khỏe tâm thần và những kết quả cũng rất kém cho người già, những người đang có nhiều vấn đề trầm cảm đang diễn ra, Những giai đoạn trầm cảm xảy ra lặp đi lặp lại cũng theo một mô hình: Đó là mô hình được thiết lập mà các cá nhân được xem là dễ bị ảnh hưởng với các mô hình mang tính mùa về cảm xúc thấp (rối loạn xúc cảm theo mùa), với nhiều người khác cũng có các mô hình có liên quan đến các sự kiện cuộc sống trước đó hiện ra từ việc hình thành một cách lượng giá xã hội cẩn thận như những nghi lễ quan trọng về các sự kiện có ý nghĩa, chẳng hạn như sự mất mát một ai đó.

Những khảo sát cộng đồng cũng cho thấy hầu hết mọi người bị trầm cảm lại không hướng đến tìm kiếm sự trợ giúp về chuyên môn, và khi họ tìm đến những bác sĩ chuyên khoa thì điều đó lại rất khác so với những kỹ năng của họ về xác định những trầm cảm và điều đó thường được xác định bởi chính bản thân họ. Cuốn sách này chủ yếu liên quan đến một số khía cạnh xã hội của sức khoẻ tâm thần, nhưng nó cũng thực sự hữu ích cho các nhân viên xã hội để hiểu những hình thức điều trị về thể chất. Đối lập lại, việc chọn lựa các phương pháp điều trị bởi bác sĩ cũng đánh giá một số nhân tố xã hội, được xác định ở các nhóm liên ngành bởi chính nhân viên xã hội.

Khi đánh giá một cá nhân có trầm cảm, các nhà chuyên môn về chăm sóc sức khoẻ thường quan tâm đến những đặc trưng tâm lý, xã hội, văn hoá và thể chất của bệnh nhân và chất lượng các mối quan hệ liên cá nhân. Họ cũng xem xét tác động của những vấn đề này đến sự trầm cảm và những ý nghĩa cho sự chọn lựa hình thức chữa trị và những hình thức giám sát sau đó.

Khoảng hơn 40 năm qua, can thiệp dược học về trầm cảm đã trở thành cách thức chống trầm cảm, với nhiều thế hệ thuốc được phát triển. Các loại thuốc trầm cảm ba vòng vào những năm 1950 nhưng có nhiều vấn đề bởi vì khả năng tạo nên những phản ứng dị ứng và khả năng tử vong cao khi bệnh nhân dùng quá liều, một sự nguy hiểm khác đó là cũng tạo nên rủi ro cao về các hình thức tự sát liên quan đến trầm cảm. Những nhóm thuốc gần đây, như thuốc kìm hãm sự đẩy nhanh của máu (SSRIs) có vẻ là hình thức điều trị hiệu quả hơn với những rủi ro cho bệnh nhân nhưng lại đem lại nhiều tranh luận xung quanh tính hiệu quả của những loại thuốc này. Khi sự cho phép được thực hiện với những tác động của giả dược điều đó cũng xảy ra khi dùng nhiều loại thuốc vì các điều kiện liên quan đến tâm thần học, một số bình luận đã đặt ra các câu hỏi là khi nào có những cấp độ ý nghĩa về sự tiến triển khi dùng các loại thuốc chống trầm cảm (Kirsch 2000). Cũng có những câu hỏi về sự hoà thiện bằng cứ được xuất bản, hầu hết việc thử nghiệm các loại thuốc được tài trợ bởi nhà sản xuất và nó thường không rõ ràng khi nghiên cứu những kết quả không tích cực, (bao gồm cả những hình thức tự sát hoặc những hành vi cực đoan khác) đều đã được xuất bản (Lexchin và cộng sự 2003).

Mặc dù nhiều người trải qua sự trầm cảm sẽ tiếp tục báo cáo những lợi ích từ việc dùng thuốc chống trầm cảm, một số bác sĩ sẽ phát hiện điều này là cách thức thuận tiện nhất để đáp lại những yêu cầu của bệnh nhân cần sự giúp đỡ, cách tiếp cận dựa trên bằng cứ đối với việc quản lý trầm cảm hiện cũng gây được sự chú ý về các hình thức can thiệp phi dược lý, như có được đề cập qua những hướng dẫn của NICE được trích dẫn trước đây. Điều này kéo thep các hình thức chăm sóc theo tầng bậc từ việc theo dõi cẩn thận ban đầu để xem xét khi nào cá nhân đó có cảm thấy được tốt hơn qua một vài tuần (không gồm những ai thể hiện được sự trẩm cảm nặng nề có những rối nhiễu tâm lý hoặc có ý định tự sát), thông qua các hình thức can thiệp tâm lý, tập thể dục và tự giúp có định hướng đối với những hình thức trầm cảm nhẹ nhàng, thông qua các hình thức trợ giúp xã hội, can thiệp tâm lý và dùng thuốc đối với hình thức trầm cảm ở mức độ trung bình; và các hình thức can thiệp tâm lý phức tạo, dùng thuốc chống trầm cảm và những hình thức điều trị thể chất khác đối với hình thức trầm cảm nặng.

Điều trị về trầm cảm nặng có thể gồm của hình thức điều trị rối loạn điện năng (ECT) mà nhiều nhân viên xã hội cảm thấy không dễ dàng gì, bao gồm những ai bắt buộc phải vào viện, đó là những người có lẽ uỷ thách một dịch vụ cho người sử dụng theo hình thức điều trị như thế này. Điều này cũng tiếp tục diễn ra với các mối quan tâm về một số nhóm người sử dụng dịch vụ (Rose và cộng sự 2003). Những hình thức biện hộ dành cho ECT cũng cho rằng hiện có một tiến trình rất khác biệt mà được mô tả ở các nghiên cứu chống lại tâm thần học, nó phản ánh được các hoạt động thực hành mà việc gây tê bình thường và thư giãn cơ bắp lại không được sử dụng điều đó dẫn đến tổn thương thể chất và tâm thần. Hoạt động thực hành hiện tại kéo theo những hình thức gây tê thông thường và thư giãn cơ bắp do đó các cá nhân không thực sự nhận thức được trong toàn bộ quá trình và chẳng biết được những biến động lớn gây ra những tổn thương trước đó mà chỉ cảm thấy đắng ở lưỡi mà thôi. Việc đặt bảng cực điện ở một bên đầu (không phải ở phía gần não) cũng làm giảm những tổn thương về trí nhớ và những chức năng nhận thức khác.

Một đánh giá tổng lược về tính hiệu quả của ECT (Viện quốc gia về trị liệu tiên tiến 2003 (cũng đưa ra những kết quả rất phức tạp, nó khẳng định rằng ECT tạo ra những tổn thương nhận thức mà thông qua đó có liên quan đến hàng loạt vấn đề nhưng điều này lại thường không mang tính thường trực, và ECT hiện được xem là hiệu quả hơn trong việc xoá bỏ sự trầm cảm từ việc sử dụng một số thuốc. Những đánh giá tổng thể về báo cáo này chính là việc ECT có lẽ sẽ bị hạn chế để đạt được những hình thức cải thiện nhanh về những hình thức trầm cảm nặng khi những phương pháp khác được cố gắng thực hiện. Hướng dẫn này chính là việc đồng thuận cung cấp thông tin về ECT có thể đạt được khi có thể. Các nhân viên xã hội có thể thực hiện được đó để đảm bảo rằng những mong muốn của các cá nhân và các quyền của họ là phù hợp theo điều như vậy qua các hình thức tác động trực tiếp, tư vấn cho người chăm sóc, các dịch vụ biện hộ và các hình thức bảo vệ luật chăm sóc sức khoẻ.

3. Các hình thức trị liệu hành vi nhận thức


Cũng có nhiều lý thuyết lý giải về sự nảy sinh các vấn đề trầm cảm, từ những vấn đề mang tính quyết định luận sinh học, sự di truyền trầm cảm, qua các mô hình đó có thể thấy được mối quan hệ giữa những khía cạnh tổn thương gen và những yếu tố về sự căng thẳng, qua đó các vấn đề này được xác định vị trí ở các mô hình lý giải về xã hội và tâm lý học. Các lý thuyết tâm động học nhấn mạnh đến tính ưu việt của những mối quan hệ ban đầu và ảnh hưởng của chúng đối với việc làm giảm căng thẳng xúc cảm, đáng lưu ý là tác động của những hình thức đổ vỡ đối với sự gắn kết vốn có.

Những cách tiếp cận sau này cũng được thực hiện theo cuộc cách mạng nhận thức trong tâm lý học, đáng lưu ý là sự phát triển mạnh mẽ những hình thức trị liệu hành vi (CBT); những đặc trưng gen về các hình thức trị liệu nhận thức được xem như là xác nhận việc những rối nhiễu tâm lý hiện ra từ tiến trình xử lý thông tin sai của con người mà qua đó các cá nhân học hỏi được những điều họ đã học ở các giai đoạn phát triển và cả những ý tưởng mà có thể chưa được học để thay thế chúng với nhiều cách thức tư duy linh hoạt và hữu ích hơn. Tác giả nổi bật trong quá trình phát triển hình thức trị liệu này về trầm cảm chính là Aaron Beck. Beck có ghi nhận rằng các cá nhân bị trầm cảm có những niềm tin cốt lõi hoặc có các hình thức tư duy mang tính tiêu cực hay tự chuốc lấy thất bại (Beck và cộng sự 1979). Những mô hình tư duy này cũng làm cho các cá nhân thất bại khi họ tạo dựng được những kỳ vọng về cuộc sống mà chẳng bao giờ đạt được.

Chương trình trợ giúp ban đầu về sức khoẻ tâm thần (CSSIP/NIMHE) có trích dẫn những ví dụ sau về cách tư duy về trầm cảm.

Tôi thất bại


Tôi luôn thất vọng


Đó là lỗi của tôi


Chẳng có điều gì tốt đẹp dành cho tôi


Tôi chẳng có giá gì


Chẳng ai thương yêu tôi


Tôi cô độc


Cuộc sống là đáng sống


Chẳng có gì tốt đẹp ngoài ở đây


Mọi điều thường là không tốt đẹp


Sau này Beck có cho rằng những mô hình tư duy thông thường có thể được phân thành hai loại nhân cách (Beck 1983). Một số cá nhân bị trầm cảm được xem là “sociotropic/mang tính trí tuyến xã hội” có nghĩa là họ không phải luôn có những mức độ nhu cầu cao cần được sự tán đồng và chấp nhận từ những cá nhân khác, và để đạt được sự tán đồng đó có thể ưu tiên đảm bảo rằng sự tán đồng đó nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của họ. Khi những xu hướng trí tuyến xã hội này tiếp tục được diễn ra vượt qua những kết quả liên quan đến thoả mãn nhu cầu cá nhân cũng sẽ làm tăng sự trầm cảm theo

những tác động của chúng. Đặc điểm nhân cách về trầm cảm thứ hai chính là về “độc lập”; đó là những người xác định những kỳ vọng không phù hợp theo năng lực riêng để đạt các mục đích riêng rẽ mà không cần sự trợ giúp từ người khác. Cả hai hình thức này đều hướng đến các cá nhân bộc lộ ra những điểm thất vọng và trầm cảm, hoặc là vì các mối quan hệ bị phá vỡ hoặc bị đe doạ (mô hình sociotropic) hay những kết quả đạt được về mục đích không vật chất hoá, dĩ nhiên thông qua những thất vọng mang tính giáo dục hoặc nghề nghiệp (mô hình độc lập).

Mulhern và cộng sự (2004) cũng mô tả một cách thiết thực các bước đi trong tiếp cận về CBT khi tiếp cận đến cả hai nhóm người như thế này bị trầm cảm.

Những tiếp xúc ban đầu và tạo dựng sự liên minh trị liệu: Ở chỗ mà cá nhân có các vấn đề trầm cảm hướng đến tìm kiếm sự trợ giúp cũng trở nên bị trầm cảm ở một vài thời điểm, và tác nhân của việc tìm kiếm sự trợ giúp cũng hình thành nên các cảm xúc thất bại hay tự trọng kém. Họ cũng tự thích ứng những phong cách sống riêng và tránh được các tình huống làm tăng thêm sự trầm cảm, dĩ nhiên phải tự rút mình từ các công việc hay các tương tác xã hội. Mulhern và cộng sự nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc duy trì những phản hồi không mang tính phán xét để thiết lập một báo cáo trị liệu và sẵn sàng lắng nghe những trải nghiệm cá nhân về những khủng hoảng riêng của họ hơn là tạo nên một danh mục các hội chứng;

Lượng giá: Một lần nữa, sự tham gia mang tính thấu cảm lại là trọng tâm của tiến trình đánh giá, và thông qua lắng nghe với những đoạn đối thoại mà cá nhân đặt ra đối với từng tình huống để người thực hành có thể phác hoạ ra các tình huống hướng đến duy trì các giai đoạn trầm cảm, các yếu tố đó cũng làm lắng đọng lại những xúc cảm và cách thức mà họ thường xuyên phải đối mặt với những xúc cảm đó. Điều này cũng có thể khêu gợi ra những chiến lược nhận thức để các cá nhân có thể áp dụng để đối mặt với tình trạng gây ra trầm cảm, ví dụ những vấn đề tạo nên sự dư thừa, những vấn đề thiếu hụt của cá nhân hay là những yếu tố kinh tế bên ngoài. Lượng giá sẽ bao gồm cả việc yêu cầu các cá nhân giám sát những hoạt động riêng của họ qua nhiều giai đoạn, điều này cũng tạo nên nền tảng hiện thực mà sự thay đổi và biến đổi có thể được giám sát.

Những hình thức can thiệp hành vi và phân chia các nhiệm vụ: Từ sự lượng giá, các nhà thực hành và những người sử dụng dịch vụ có thể bắt đầu xác định một loạt các nhiệm vụ hay các hoạt động mà họ có thể nỗ lực xây dựng sự tin tưởng và điều phối những cảm xúc riêng của họ về trầm cảm. CBT giống như những hình thức can thiệp khác cũng

dựa trên lý thuyết học hỏi xã hội, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “bài tập ở nhà”, các nhiệm vụ mà cá nhân phải thưc hiện giữa các buổi trị liệu, thông qua đó các mô hình tư duy mới được kiểm nghiệm và sự học hỏi được khái quát theo các phần trị liệu đối với cuộc sống trong hiện thực. Các nhiệm vụ được đồng thuận đối với những cá nhân do đó họ được xem là phù hợp đối với những nhận thức riêng của họ về các vấn đề và do đó không bộc lộ bởi những nhà trị liệu. Chúng cũng được xem là những phương tiện để đánh giá về những niềm tin trung tâm mà làm tăng sự trầm cảm và phát triển được những cách thức tư duy mới được xem là hiện thực chứ không phải là tự chuốc lấy những thất bại.

Giám sát can thiệp: Giám sát và lượng giá được xem là tích hợp với mọi hình thức can thiệp hành vi hay nhận thức hành vi, xem xét các hình thức can thiệp như một hình thức thưc nghiệm được dựa trên giả thuyết về các nhu cầu tạo sự thay đổi và lượng giác các kết quả. Điều này cũng hình thức các mẫu hình lặp lại các hoạt động thực hành duy trì nhật trình các hoạt động. Hơn nữa, điều này cũng thu hút việc tối ưu một thang độ phù hợp như cách sáng tạo sự trầm cảm của Beck (Beck 1996), thông qua việc sử dụng những công cụ như vậy cũng duy trì những công việc của nhân viên xã hội khi so sánh với các nhà tâm lý học trị liệu.

Dĩ nhiên cũng có một mối nguy hại trong việc hướng đến nhìn nhận CBT như là một thuốc bách bệnh. Hiện tại, đang có sự gia tăng dùng CBT khi chính phủ Anh quan đến CBT như một hình thức can thiệp cho các vấn đề sức khoẻ tâm thần chung, đáng lưu ý là thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận đến các chương trình trị liệu tâm lý (Bộ Y tế 2008b). Cũng có những báo cáo về các bằng chứng biện hộ cho cách sử dụng về CBT thông qua nhiều cấp độ trầm cảm khác nhau. Những hướng dẫn trị liệu quốc gia về quản lý trầm cảm cũng cho thấy có nhiều cách tiếp cận đầy sắc thái cho biết có những hình thức khủng hoảng ở trạng thái bình thường, trầm trọng và không muốn điều trị cần có thể cách tiếp cận tâm lý học về sự chọn lựa. Mặc dù vậy, với các hình thức trầm cảm từ mức độ nhẹ đến trung bình, CBT được xem là một trong những cách tiếp cận ngắn hạn mang tính hiệu quả như hình thức trị liệu nhấn mạnh đến việc giải quyết vấn đề và vấn đề tham vấn (Trung tâm hợp tác quốc gia về sức khoẻ tâm thần 2004).

III. Các hình thức can thiệp công tác xã hội khác


Có những tranh luận cho thấy các hình thức trị liệu tâm lý học, được thực hiện bởi những nhân viên xã hội được đào tạo và giám sát, có xu hướng cá nhân hoá bản chất trầm cảm và lề hoá những nguyên nhân mang tính cấu trúc hơn về trầm cảm. Cảm nhận bị trầm

cảm có thể cũng được xem là sự phản hồi cấp tiến đối với những nhân tố bên ngoài về sự khủng hoảng như phân biệt chủng tộc, nghèo đói hay bạo lực gia đình. Như chúng ta có nhìn nhận, trầm cảm được gắn cùng với các hình thức cấu trúc về sự bất lợi, mặc dù có những cá nhân nằm trong các nhóm xã hội bị áp đặt với các nhân tố phục hồi riêng, bao gồm cả các hình thức nhận thức, bảo trợ họ từ việc bị trầm cảm.

Các cá nhân với trầm cảm lâu dài thường có những vấn đề trong việc duy trì việc làm được trả lương. Điều này được xem như là việc tạo được cấu trúc, tương tác xã hội và những ích lợi về sự tự trọng, tất cả đều được xem là những khía cạnh quan trọng cho quá trình phục hồi. Các nhân viên xã hội có thể gắn kết các cá nhân có trầm cảm lâu dài lại với nhau để xây dựng các lịch trình được xem là có hữu ích đối với quá trình phục hồi chức năng. Việc giữ liên lạc với các dịch vụ việc làm đặc biệt có thể hiệu quả trong việc giúp đỡ các cá nhân thông qua việc phát hiện và quay trở lại công việc.

Mặc dù trợ giúp xã hội thường được giới thiệu với những vấn đề tốt đẹp trong mối quan hệ về trầm cảm, và những tách biệt xã hội thường gắn với những kết quả kém và tính kinh niên, cũng có một chút những nỗ lực nhằm xác định điều đó có ý nghĩa gì và cần lượng gia về tính hiệu quả của can thiệp nhằm làm giảm sự tách biệt. Việc sử dụng khu vực tình nguyện hoặc các cấu trúc trợ giúp không chính thức, một khu vực ưu tiên, có thể đem lại nhiều ích lợi và sự khuyến khích cho mọi người tham gia vào các nhóm tự lực và tự nguyện cũng thực sự là rất hữu ích. Tỷ lệ nổi trội các vấn đề trầm cảm ở phụ nữ từ các cộng đồng da đen đến người thiểu số, đáng lưu ý là người châu Á và Phương Đông (Meltzer và cộng sự 1995) cũng làm nền tảng quan trọng cho các đạo luật về trợ giúp và những sáng kiến tự nguyện hướng trực tiếp đến việc đáp ứng các nhu cầu của họ.

1. Trầm cảm hậu sinh


Một hình thức trầm cảm khác được xem là phù hợp với các công việc của nhân viên xã hội, đăc biệt là đối với ai làm việc trong các dịch vụ với trẻ em và gia đình, chính là trầm cảm hậu sinh. Mọi người ước đoán rằng có khoảng 10-15% các bà mẹ sau khi sinh một tháng, mặc dù có sự thừa nhận là có sự mệt mỏi, lại thường rất hay cáu kỉnh và lo lắng hơn là có các dấu hiệu kinh điển về sự trầm cảm. Trầm cảm hậu sinh có những hệ quả không chỉ đối với người mẹ mà còn về sự phát triển liên quan đến trẻ em: Đứa trẻ của bà mẹ trải nghiệm qua những vấn đề trầm cảm lại gia tăng khả năng trải nghiệm thời gian trẻ thơ với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần trẻ em và vị thành niên và thường có các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở giai đoạn sau của cuộc đời. Một báo cáo tương tự về các bằng

chứng liên quan đến trầm cảm hậu sinh cũng cho thấy sự tách biệt xã hội của người phụ nữ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/03/2024