Hoàn Thiện Cơ Chế, Chính Sách Vĩ Mô Nhằm Thu Hút Nhân Lực Chất Lượng Cao Cho Các Doanh Nghiệp Du Lịch Tỉnh Ninh Bình


lĩnh vực, ngành nghề, độ tuổi, giới tính, công việc và tình hình đáp ứng yêu cầu phát triển theo vùng, miền…

- Nội dung của Quy hoạch và dự báo: Nội dung của Quy hoạch và dự báo về nhân lực tại các DNDL tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tập trung giải quyết các vấn đề sau: (1) Đánh giá hiện trạng ngành du lịch và nhân lực du lịch tại các DNDL trên địa bàn tỉnh: Hiện trạng về quy mô nhân lực; Chất lượng nhân lực (Trình độ văn hóa và trình độ đào tạo; Trình độ ngoại ngữ và tin học); Cơ cấu nhân lực (Theo địa giới du lịch; Theo lĩnh vực hoạt động; Theo ngành nghề chuyên môn; Theo giới tính và độ tuổi). (2) Đánh giá hiện trạng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; phát triển nhân lực của các DNDL; (3) Đánh giá hiện trạng quản lý nhà nước về nhân lực của các DNDL; (4) Xác định phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu của Quy hoạch và dự báo; (5) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nhân lực của các DNDL; (6) Dự nhu cầu nhân lực ngành Du lịch đến 2030 (Dự báo khái quát; Dự báo cụ thể về số lượng, chất lượng, cơ cấu nhân lực); (7) Xây dựng các giải pháp tổng thể và chi tiết; (8) Chỉ rõ các nhiệm vụ, các chương trình, dự án, cơ chế chính sách về phát triển nhân lực của các DNDL.

4.3.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách vĩ mô nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp du lịch tỉnh Ninh Bình

Đây được coi là giải pháp giữ vai trò then chốt để quyết định và thu hút nhân lực chất lượng cao cho những doanh nghiệp ngành du lịch tỉnh Ninh Bình. Kinh doanh du lịch tập hợp từ các ngành nghề, các lĩnh vực hoạt động khác nhau, trong đó mỗi hoạt động kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cũng đều có quyền quyết định việc tuyển chọn và sử dụng lao động của mình. Do tính đặc thù của ngành cũng như để đảm bảo mục đích chung cần đạt tới của lĩnh vực kinh doanh du lịch, cần phải có những giải pháp đột phá nhằm hoàn


thiện cơ chế, chính sách để thu hút nhân lực chất lượng cao cho những doanh nghiệp du lịch tỉnh Ninh Bình. Cụ thể:

4.3.2.1. Về chính sách tuyển dụng nhân lực

Trong xu thế hội nhập, do yêu cầu phát triển, cơ cấu ngành nghề du lịch sẽ thay đổi và xuất hiện những nghề mới như quản trị và phục vụ giải trí, thể thao, hội nghị, sự kiện; nghề tiếp thị, quảng bá, xúc tiến du lịch; quản lý và phục vụ bãi cắm trại; quản lý khu du lịch. Cùng với đó, với những đặc thù du lịch của tỉnh Ninh Bình là phát triển du lịch sinh thái và du lịch tâm linh sẽ hình thành nhiều vị trí công việc. Vì vậy, quản lý nhà nước của tỉnh Ninh Bình đối với công tác tuyển dụng trong các hoạt động kinh doanh du lịch của tỉnh có nhiều việc, nhiều nội dung, trong đó việc xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cho lao động trong ngành du lịch là một nội dung có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp cho các DNDL tỉnh Ninh Bình căn cứ vào đó để nhận xét, đánh giá, bố trí, tuyển chọn và thu hút lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao vào làm việc tại các lĩnh vực kinh doanh của mình, ngăn chặn việc tuyển dụng và sử dụng lao động một cách tùy tiện, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ cho người lao động và người sử dụng lao động. Hệ thống chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ ngành du lịch có vai trò cần thiết là tạo điều kiện cho các DNDL không những cải tiến các điều kiện và tổ chức làm việc mà còn phải phân công, sắp xếp con người ớ vị trí làm việc phù hợp với mong muốn của họ, duy trì khả năng làm việc và giữ gìn sức khỏe, tạo cho họ có điều kiện sáng tạo và phát triển nhân cách của mình. Vì vậy, khi xây dựng vị trí việc làm và tiêu chuẩn nghề nghiệp của ngành du lịch, Ninh Bình cần phải đảm bảo được các vấn đề sau:

+ Cần thống nhất cách nhìn nhận và đưa ra định nghĩa, đặc điểm của lao động cho ngành du lịch một cách rõ ràng; Cụ thể về cơ cấu của những

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.


ngành nghề mới. Bởi khi thống nhất được quan điểm, cách nhìn nhận thì sẽ thống nhất được nội dung các chức danh công việc.

Nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong hội nhập quốc tế - 16

+ Xây dựng và mô tả rõ ràng bảng danh mục chức danh nghề nghiệp, bao gồm: Tên và hạng của chức danh nghề nghiệp; Nhiệm vụ công việc; Tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức; Các vấn đề về nâng hạng nghề nghiệp. Đây chính là căn cứ để các DNDL tùy vào loại hình kinh doanh, tùy qui mô mà tuyển dụng lao động, định mức số lao động tham gia vào quá trình kinh doanh của đơn vị mình thế nào.

+ Qui định rõ chức trách, nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể với mỗi chức danh. Những yêu cầu này đòi hỏi phải rõ ràng, nêu được đầy đủ các yêu cầu cần thiết với mỗi nhóm lao động về ý nghĩa của nghề nghiệp, đặc điểm chung của nghề, quá trình thao tác nghề, những tri thức, kỹ năng cần phải có,...

Trong nội dung qui định chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu đối với lao động tại các DNDL cần đặc biệt lưu ý các vấn đề:

+ Về phẩm chất chính trị, đạo đức của lao động. Đây là tiêu chí phải được đặc biệt chú trọng và bắt buộc phải có với mọi lao động du lịch. Nội dung yêu cầu lao động phải làm rõ là người làm du lịch phải thấm nhuần nguyên tắc thể hiện trong hoạt động du lịch là: dân tộc, văn minh, an ninh và kinh tế; phải hiểu biết chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương.

+ Về kiến thức cần có của người lao động: đối với từng lao động tương ứng đòi hỏi những yêu cầu trình độ khác nhau, tương ứng với từng hệ đào tạo khác nhau. Để có thể phục vụ được khách du lịch tốt nhất, hiệu quả cao đòi hỏi lao động trong kinh doanh du lịch phải được đào tạo một cách chu đáo, có khả năng giao tiếp, có kiến thức tâm lý, văn hóa du lịch, kiến thức về kinh doanh du lịch và đặc biệt là thông thạo nhiều thứ tiếng nước ngoài.


+ Tiêu chuẩn về chức danh ngành du lịch cần phải chú ý đến thể lực, thể hình cho nhân lực. Đối với một số nghề đòi hỏi lao động phải có thể hình đẹp, cân đối, lời ăn tiếng nói phải có sức hấp dẫn, lôi cuốn như lao động thuộc nghề lễ tân, hướng dẫn viên du lịch.

Mục tiêu xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cho lao động trong ngành du lịch là để giúp cho các DNDL có căn cử để tuyển chọn và sử dụng có hiệu quả lao động vào thực hiện nhiệm vụ kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này đòi hỏi các nhà nước phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, hướng dẫn thực hiện tiêu chuẩn này trong các tổ chức kinh tế, các hình thức sở hữu khác nhau cùng kinh doanh du lịch. Công tác kiểm tra phải làm thường xuyên, phù hợp, không cứng nhắc với mỗi chủ sở hữu trên nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên Nhà nước - Doanh nghiệp - Người du lịch. Đối với nhà nước, việc ban hành chính sách phải chuyển từ vai trò quản lý trực tiếp sang gián tiếp, ngăn chặn việc tuyển dụng và sử dụng lao động tùy tiện trong các doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động, người sử dụng lao động, đồng thời tạo điều kiện cho du lịch phát triên một cách bền vững. Đối với DNDL, khi áp dụng chính sách tuyển dụng lao động phải được dễ dàng, đơn giản và thuận tiện. Còn người lao động phải được hưởng các lợi ích, đảm bảo được quyền lợi của mình, không bị chủ doanh nghiệp sa thải và thuyên chuyển một cách bừa bãi.

4.3.2.2. Chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ

Trong kinh doanh du lịch, trả lương cho người lao động chính là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. Tuy nhiên trong góc độ quản lý vĩ mô, nhà nước không thể để cho việc trả lương người lao động mặc sức biến động, nhất là khi nhà nước phải bảo vệ lợi ích của đông đảo


người lao động và nhằm khuyến khích, thu hút người lao động hăng say làm việc với hiệu quả kinh tế thực sự. Ở đây nhà nước quản lý tiền lương bằng cách qui định mức tiền lương tối thiểu trong từng thời kỳ đã được luật định thông qua các văn bản pháp qui của nhà nước. Đó là căn cứ xác định mức tiền lương tối thiểu trong các hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, nhà nước cũng có các chính sách qui định về mức lưong tối thiếu cho người lao động cũng như chế độ, thời gian làm việc, nghỉ ngơi của người lao động làm việc ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài,... Ngoài qui định mức lương tối thiểu, nhà nước cũng công bố thang, bảng lương để các doanh nghiệp làm cơ sở tính lương cũng như các chế độ khác của người lao động. Trong đó, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức trả lương, trả công hợp lý, vừa khuyến khích được người lao động vừa đảm bảo các mục tiêu, điều kiện kinh doanh, phù hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như đảm bảo các quy định của pháp luật đối với người lao động về tiền công, tiền lương. Hình thức trả lương hiện nay là theo kết quả công việc được giao, hoặc trả theo ngày công, theo sản phẩm gắn với kết quả kinh doanh của các DNDL.

Vì vậy, các chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ phải kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa chính sách về đãi ngộ vật chất và tinh thần. Cụ thể là các chính sách tạo mới nhiều công ăn việc làm, đảm bảo hỗ trợ cho các đối tượng trong xã hội, ở các vùng, các ngành cần thiết cho phát triển chung trong toàn xã hội như: chính sách qui hoạch lao động nữ; các chính sách đãi ngộ cho người lao động như chế độ bảo hiểm, nhà cửa; tổ chức các cuộc thi tay nghề hàng năm (thi “lễ tân giỏi”, “hướng dẫn viên giỏi”,...) hoặc có thể phong tặng danh hiệu “nghệ nhân nấu ăn”,... Từ đó người lao động mới gắn bó với doanh nghiệp, làm việc với năng suất cao và tự giác.


4.3.2.3. Về chính sách đào tạo và đảm bảo nguồn nhân lực

Kinh doanh du lịch sử dụng rất nhiều lao động thuộc các ngành, nghề khác nhau, mỗi lao động trong đó đòi hỏi phải có qui trình công nghệ phục vụ khác nhau, trình độ chuyên môn cao và tỉ mỉ, nhiều nghề đòi hỏi lao động phải đạt tới trình độ nghệ thuật phục vụ. Do đó, nhân lực tại các DNDL cần phải được đào tạo bài bản, hệ thống và thường xuyên, liên tục cập nhật kiến thức mới thì mới có được những kĩ năng nghề nghiệp để đáp ứng tốt cho công việc. Vì vậy, về quản lý vĩ mô cần có các cơ chế đào tạo vê nhân lực hợp lý để tạo điều kiện cho các DNDL tăng cường hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực.

- Trước hết cần tiến hành xây dựng dự báo nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch giai đoạn 2020-2030. Để làm được dự báo phải tiến hành rà soát, điều tra, thống kê và phân tích hiện trạng lao động của từng DNDL và toàn ngành, toàn tỉnh. Các DNDL cần phải đánh giá, phân tích nhu cầu của từng công việc đòi hỏi cần có những con người như thế nào, phân tích được khả năng những con người đang làm công việc đó và phân tích được nhu cầu muốn đào tạo lại và nâng cao trình độ chuyên môn. Dự báo nhu cầu đào tạo phải chỉ ra được: số lượng cần đào tạo, cần bồi dưỡng; chủng loại lao động (quản lý hay trực tiếp,...) và ngành nghề cần đào tạo, bồi dưỡng và loại hình ngoại ngữ bắt buộc là gì,...

- Từ dự báo nhu cầu cho đào tạo, bồi dường của toàn ngành, phải xây dựng được chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực du lịch của tỉnh cũng như nhân lực của tại các DNDL từ 2020 đến 2030 trình Tỉnh ủy, UBND tỉnh phê duyệt để làm cơ sở cho việc đưa ra kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm của ngành. Ngoài số lượng, chủng loại lao động, ngành nghề và hình thức đào tạo,... chiến lược cũng phải chỉ rõ định hướng cơ cấu ngành nghề sẽ đào tạo trong giai đoạn này. Cơ cấu đào tạo cần phải chú


trọng đào tạo đồng bộ từ nhân viên phục vụ, công nhân lành nghề đến cán bộ quản lý kinh doanh, cán bộ quản lý theo tỉ lệ thích hợp, tránh tình trạng chỉ tập trung đào tạo ở bậc đại học (nhiều thầy ít thợ). Theo kinh nghiệm của các chuyên gia du lịch khi nghiên cứu về nhu cầu đào tạo của các DNDL tại Việt Nam và tại các nước EU thì tỷ lệ cơ cấu đào tạo được cho là tương đối hợp lý, đáp ứng nhu cầu thực tiễn là 5:10:85, tức là cứ 100 người được đào tạo thì có 5 người là lãnh đạo doanh nghiệp (quản lý cấp cao) và là trưởng các phòng ban chức năng (quản lý cấp trung) - đây là các đối tượng thường tập trung đào tạo ở bậc đại học hoặc trên đại học ở các trường trong và ngoài nước; 10 người là lao động là nhân viên các phòng ban chức năng của DNDL, lễ tân, đầu bếp, chuyên viên kinh tế, kỹ thuật - đào tạo tại các cơ sở là các trường đại học, cao đẳng, trung cấp có khoa chuyên môn về khách sạn, du lịch; 85 người là lao động trực tiếp (phục vụ nhà hàng, buồng, giặt là,…) - tập trung đào tạo tại các trường trung cấp nghề hoặc trung tâm dạy nghề.

- Trên cơ sở chiến lược và kế hoạch đào tạo, cần có chính sách hỗ trợ cán bộ, đặc biệt là cán bộ giữ vị trí quản lý tại các DNDL nâng cao trình độ đào tạo cả ở trong nước và ngoài nước thì trước mắt và chuẩn bị cho lâu dài trong công tác phát triển ngành du lịch của tỉnh Ninh Bình trong xu thế hội nhập toàn cầu. Chính sách ưu đãi, chú trọng đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch… để thu hút đội ngũ này về làm việc tại các DNDL.

- Xây dựng chính sách hợp tác để đào tạo giữa DNDL và các cơ sở đào tạo nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phối hợp dễ dàng với những cơ sở đào tạo trong việc nâng cao về chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn.


- Xây dựng các chính sách hỗ trợ đào tạo cho ngành du lịch tại địa bàn tỉnh. Để làm được điều này, phải coi đào tạo cho các DNDL là sự nghiệp của toàn tỉnh, đòi hỏi các cấp, các ngành phải có sự đầu tư thỏa đáng về tài chính, các doanh nghiệp gắn kết với trường học, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học thực tập, tìm hiểu thực tế để lý thuyết gắn với thực tiễn. Do tính chất đặc thù về lao động du lịch, nhiều loại hình lao động, nhiều trình độ khác nhau, từ giản đơn (lao động nghiệp vụ) đến phức tạp (giám sát, quản lý). Vì vậy, khi đào tạo cần chú ý đào tạo từ những vấn đề đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Cơ chế đào đạo có sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp du lịch, tập trung đào tạo những gì thực tế cần, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Tiêu chí đánh giá về chất lượng đào tạo là sự chấp nhận của người sử dụng lao động và tỉ lệ tìm được việc làm; giáo dục và đào tạo du lịch phải gắn liền với nhu cầu thị trường.

4.3.3. Các doanh nghiệp du lịch cần xây dựng và thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực của doanh nghiệp

4.3.3.1. Xây dựng và thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao thể lực nhân lực

Thể lực nhân lực chính là việc nâng cao sức khỏe, tinh thần thoải mái của thể chất và tinh thần người lao động. Khi thể lực tốt thì trí tuệ mới tốt, hiệu quả lao động mới cao và ngược lại. Vì vậy, để góp phần tằng cường sức khỏe cho người lao động, DNDL tỉnh Ninh Bình cần tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, thực hiện định kỳ khám sức khỏe cho nhân lực tại DNDL.

Nhân lực tại các DNDL gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực là lao động trực tiếp. Trong đó, đặc biệt chú ý đến sức khỏe của lao động trực tiếp. Lao động trực tiếp là đầu mối tiếp xúc với khách du lịch, do đó có hai vấn đề đặt ra như sau:

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 01/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí