“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [27, tr.174].
Từ Đại hội lần tứ VIII (1996) đến Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng, tình hình thế giới có nhiều đặc điểm mới, đặc biệt là xu thế toàn cấu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và những thành tựu về khoa học, công nghệ. Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta cụ thể hóa thành bài học kết hợp nội lực và ngoại lực cho sự phát triển. Đảng ta xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…” [28, tr.120]; “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường” [30, tr.120]. Tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, một trong bốn bài học kinh nghiệm được Đảng tổng kết chính là bài học về phát huy nội lực và ngoại lực. Đảng khẳng định: “phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” [30, tr.19].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nhận thức xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng ảnh hưởng chi phối, làm gia tăng sự thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà ngày càng toàn diện trên nhiều lĩnh vực, cấp độ, hình thức khác nhau. Đảng ta xác định không chỉ hội nhập kinh tế quốc tế mà phải tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, toàn diện hơn và lưu ý trong quá trình đó cần: “Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế” [31, tr.46].
Quán triệt tinh thần đó, Nhà nước ta từng bước hiện thực hóa chủ trương của Đảng về phát huy nội lực và ngoại lực bằng nhiều chính sách, biện pháp, ngày càng phát huy được sức mạnh, vị thế quốc gia; chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực; định hướng điều tiết để khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn ngoại lực, đồng thời định hướng, kích thích việc kết hợp
nội lực và ngoại lực ngày càng mở rộng và bền vững.
3.1.1. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện để phát huy nội lực và ngoại lực
3.1.1.1. Thực trạng vai trò của nhà nước trong giữ vững ổn định chính
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Cần Thiết Phải Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Trong Hội Nhập Quốc Tế Ở Việt Nam Hiện Nay
- Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Giúp Việt Nam Tận Dụng Thời Cơ, Vượt Qua Thách Thức Trong Thời Kỳ Hội Nhập Để Phát Triển
- Nhà Nước Khai Thác, Sử Dụng Nội Lực Và Ngoại Lực Để Xây Dựng
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Xây Dựng Và Mở Rộng Quan Hệ Quốc Tế Để Chủ Động Thu Hút Ngoại Lực
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Khai Thác, Sử Dụng
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Khai Thác, Sử Dụng
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
trị, an ninh quốc gia để phát huy mọi nguồn lực của đất nước
Ổn định chính trị, an ninh quốc gia là điều kiện quan trọng để thiết lập một môi trường đầu tư ổn định, an toàn, hấp dẫn, giàu sức hút đối với các nguồn ngoại lực. Trong quá trình đổi mới, trước những khó khăn, thách thức do toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mang lại, nhà nước ta vẫn kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không chấp nhận đường lối đa nguyên, đa đảng một cách kiên quyết. Nhà nước không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, dân chủ hóa đời sống xã hội; làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên và quần chúng nhân dân; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi gây rối, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta…
Nhà nước ban hành nhiều luật, văn bản luật, các chính sách đảm bảo an ninh quốc gia; tiến hành xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, phương án đảm bảo an ninh Tổ quốc; củng cố và phát triển tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm, chú trọng hơn. Công tác tổ chức giáo dục, tuyên truyền cũng được quan tâm thực hiện nhằm nâng cao ý thức chính trị, pháp luật, ý thức bảo vệ an ninh quốc gia; nâng cao ý chí, tình cảm và năng lực hành động của các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân.
Nhờ vậy, trong những năm qua, độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được giữ vững, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Nhà nước phát
hiện và xử lý kịp thời các vụ gây rối, bạo loạn chính trị, lợi dụng chính sách tôn giáo, dân tộc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta như: các vụ kích động, gây bạo loạn đòi thành lập nhà nước Đề ga ở Tây Nguyên, vụ gây rối ở Nhà thờ Thái Hà; bắt giữ và cải tạo các phần tử chống đối cách mạng, chống phá Nhà nước… Một số vấn đề về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn hay tranh chấp trên biển cũng được giải quyết. Môi trường hòa bình, ổn định, phát triển được duy trì, nền dân chủ không ngừng được củng cố. Uy tín của nhà nước ngày càng được khẳng định. Thế và lực quốc gia không ngừng được củng cố và phát triển, tạo ra môi trường ổn định, tin cậy, thu hút các quốc gia, các nhà đầu tư đến với Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác đảm bảo an ninh, chính trị quốc gia của Nhà nước còn đứng trước những khó khăn, hạn chế cần được khắc phục kịp thời. Về mặt nhận thức, vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực này còn chưa được cụ thể hóa và quy chế hóa. Quan niệm về chiến tranh nhân dân trong điều kiện công nghệ cao, phương hướng xây dựng quân đội, công an chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và vấn đề hội nhập quốc tế trên lĩnh vực nhạy cảm này còn chưa đầy đủ, rõ ràng. Về thực tiễn, công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược có lúc, có nơi còn để bất ngờ, bị động; chưa có một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các công an, quân đội, ngoại giao…; chưa có giải pháp đồng bộ, huy động sức mạnh của toàn xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội. Một số vụ tranh chấp, khiếu kiện trong nhân dân chậm được giải quyết dứt điểm, có vụ trở thành điểm nóng, gây phức tạp về an ninh, trật tự. Lợi dụng kẽ hở và những hạn chế còn tồn tại của công tác đảm bảo an ninh, chính trị quốc gia, các thế lực thù địch bằng nhiều hình thức, biện pháp như sử dụng chiêu bài tôn giáo, nhân quyền… gây mất ổn định chính trị, an ninh quốc gia, làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả phát huy nội lực, cản trở việc thu hút ngoại lực để phát triển đất nước.
3.1.1.2. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc phát huy sức mạnh
kinh tế trong nước phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế quốc tế
Môi trường kinh tế xét đến cùng là điều kiện tiên quyết để phát huy mọi
tiềm năng, thế mạnh đất nước, tạo sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong
nước đối với các nguồn ngoại lực. Do vậy, trong hội nhập quốc tế, nhà nước ta luôn chú trọng phát huy sức mạnh kinh tế, xây dựng nền kinh tế trong nước phát triển phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế thế giới. Vai trò đó của nhà nước được biểu hiện cụ thể trên một số phương diện sau:
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là từ khi bước vào thời kỳ hội nhập đến nay, nhà nước ta đã đẩy lùi và kiểm soát được tình trạng lạm phát, tạo điều kiện cho kinh tế ổn định và tăng trưởng. Năm 1986, lạm phát phi mã ở mức 774,7%, đến năm 2000 xuống mức 0,6%. Năm 2012, trong bối cảnh thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc của khủng hoảng tài chính, kinh tế và khủng hoảng nợ công châu Âu, nhờ áp dụng hàng loạt biện pháp tiết kiệm chi tiêu công, phòng chống tham nhũng, kiểm soát ngoại tệ và thị trường vàng, Việt Nam vẫn kiểm soát tốt tình trạng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ lệ lạm phát năm 2012 đã được kéo xuống ở mức thấp còn khoảng 6,8% so với 18,1% năm 2011 [116, tr.6].
Nhà nước đồng thời đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã 4 lần thực hiện Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội. Trong 20 năm, từ 1991 - 2010, GDP theo giá thực tế tăng trung bình 7,45%/năm [5, tr.103]. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP trong nước chỉ đạt 5,03%, giảm so với giai đoạn trước nhưng trong bối cảnh khó khăn của kinh tế thế giới, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát thì mức tăng trưởng này là hợp lý [108]. Như vậy, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được ổn định trong hiện tại và vẫn có mức tăng trưởng khá trong cả giai đoạn, tiến bước trong nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Bên cạnh đó, nhà nước tiến hành nhiều biện pháp vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế quốc tế. Với vai trò tác động của nhà nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, các yếu tố thị trường và các loại thị tường tiếp tục được hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh; Nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN của Việt Nam được hình thành, phát triển vừa
có những nét đặc thù, vừa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện phân công và hợp tác quốc tế. Cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP tăng dần; tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp và thủy sản có chiều hướng giảm. Cơ cấu vùng, lãnh thổ được Nhà nước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và quan tâm hỗ trợ các vùng còn nhiều khó khăn; chú trọng đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp, dịch vụ.
Nhà nước còn chú trọng tới hoạt động kinh tế đối ngoại, tích cực mở rộng thị trường xuất nhập khẩu; mở rộng phạm vi kinh doanh cho các chủ thể kinh tế trong các thành phần kinh tế; cải thiện và tạo môi trường đầu tư kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ, luật pháp quốc tế…. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong những năm qua luôn tăng nhanh. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tăng 33% và tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng 7,1% so với so với năm 2010 [11]. Năm 2012, Việt Nam xuất siêu khoảng 284 triệu USD. Đây là đầu tiên sau gần 20 năm nhập siêu, nước ta chuyển sang xuất siêu trong cả năm [5, tr.27]. Trạng thái xuất siêu này chủ yếu được coi là do giảm nhập khẩu nguyên liệu sản xuất chứ không phải do xuất khẩu tăng bền vững nhưng cũng là tín hiệu đáng mừng cho cán cân thanh toán cũng như góp phần kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, nhà nước hỗ trợ, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới và tổ chức, tái cơ cấu. Kinh tế tập thể được đổi mới từng bước, các mô hình hợp tác xã mới với chất lượng và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Kinh tế tư nhân ngày càng phát huy tiềm năng, vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế có vốn nước ngoài có bước phát triển quan trọng. Một
mặt, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, chủ trương, chính sách về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; về giao, khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, nhà nước tạo môi trường pháp lý, thể chế, tạo cấu trúc thị trường cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hỗ trợ về vốn, lao động, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng… Với vai trò đó, nhà nước đã đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp, từng bước giải phóng sức sản xuất, phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, tạo nên sự tăng trưởng chung và nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng doanh nghiệp, từng thành phần kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nhờ chính sách đổi mới về kinh tế, hội nhập tích cực với thế giới, nhà nước đã tạo dựng được môi trường kinh tế trong nước năng động, có sức hấp dẫn đối với các nguồn ngoại lực. Thứ hạng cạnh tranh toàn cầu năm 2010 (GCI) của Việt Nam, theo Tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), đã tăng mạnh thêm 16 bậc, nằm trong số 59 quốc gia cạnh tranh toàn cầu mạnh nhất, so sánh với 137 nền kinh tế khác trên thế giới [5, tr.53].
Bên cạnh những thành tựu kể trên, vai trò của nhà nước ta đối với nền kinh tế còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, làm giảm hiệu quả việc phát huy nội lực, làm giảm khả năng đối ứng của nền kinh tế Việt Nam trước các nền kinh tế khu vực và thế giới. Những nhận thức về vai trò của nhà nước trong cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng đến việc điều hành, quản lý đất nước trong điều kiện mới. Tệ tham nhũng, quan liêu chưa được khắc phục triệt để, trở thành lực cản đối với sự phát triển của kinh tế. Năng lực, trình độ quản lý kinh tế của nhà nước chưa thực sự ngang tầm với những yêu cầu về phát huy sức mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế quốc tế như: năng lực thể chế hóa còn hạn chế; các chủ trương, chính sách có sự đổi mới nhưng còn chậm và thực thi chưa thực sự hiệu quả; hệ thống chính sách về kinh tế còn thiếu cập nhật, thiếu hoàn chỉnh, chưa thật sự nghiêm minh; quản lý kinh tế của các cơ quan chức năng và cán bộ còn chồng chéo, còn tình trạng buông lỏng, chưa thực sự lường hết được những tác động của nền kinh tế toàn cầu…
Do đó, thực trạng kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào đầu tư, khai thác tài nguyên; tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững. Nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế toàn cầu. Năm 1999, do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, tăng trưởng GDP chỉ còn 4%; năm 2012, do chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công châu Âu, mức độ tăng trưởng kinh tế so với năm 2011 đạt 5,03% [108]. Tăng trưởng kinh tế còn dựa một phần quan trọng vào vốn vay bên ngoài. Cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển biến tích cực, song còn chậm; cơ cấu nội bộ từng ngành chưa thật hợp lý. Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia công lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Các vùng trọng điểm chưa phát huy được hết tiềm năng, thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại, sự liên kết vùng chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả còn thấp. Năng suất lao động xã hội còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Xét về tiêu chí của phát triển bền vững, tỷ lệ tiêu hao vật chất còn lớn, làm giảm hiệu quả sản xuất, giảm hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3.1.1.3. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc phát triển văn hóa
- xã hội, tạo nội lực tinh thần của dân tộc
Môi trường văn hóa, xã hội phát triển là điều kiện để phát huy tối đa nguồn lực con người, gắn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, củng cố sức mạnh của nội lực quốc gia.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa: Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng phát triển văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của toàn xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Trong những năm qua, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhà nước luôn chú trọng xây dựng, hoàn thiện các chính sách pháp luật, chiến lược, các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Các chính sách đó đã
định hướng phát triển văn hóa, đảm bảo các quyền công dân về hưởng thụ văn hóa, khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân, khuyến khích đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các tầng lớp xã hội tích cực tham gia xây dựng, phát triển văn hóa, góp phần tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Một mặt, nhà nước có chính sách và đầu tư thỏa đáng cho việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc như: bảo tồn, tôn tạo các khu di tích lịch sử, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, phát huy văn hóa nghệ thuật dân gian, giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống… Nhiều di sản văn hóa truyền thống được bảo tồn, phát huy và đã được quốc tế công nhận và tôn vinh như di sản Phố cổ Hội an, Nhã nhạc Cung đình Huế, Quan họ Bắc Ninh, Hát Xoan Phú Thọ… Mặt khác, nhà nước tăng cường hoạt động giao lưu, mở rộng hợp tác văn hóa với nước ngoài, kết hợp phát triển văn hóa với du lịch, phát triển văn hóa với các hoạt động kinh tế. Nhà nước đầu tư thích đáng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển văn hóa, dịch vụ du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch làng nghề; đầu tư cho việc quảng bá văn hóa, thương hiệu du lịch quốc gia…
Trong hội nhập hiện nay, nguy cơ chồng lấn, xâm lăng văn hóa làm xói mòn các giá trị truyền thống là một thách thức lớn đối với sự phát triển. Vì vậy, trong các nhiệm vụ phát triển văn hóa, nhà nước chú trọng nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, kết hợp hài hòa văn hóa truyền thống với hiện đại. Nhà nước tăng cường tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí, bản lĩnh của người Việt Nam, tinh thần vươn lên thoát nghèo, làm giàu hợp pháp, tích cực xây dựng đất nước. Các phong trào thi đua, phong trào xã hội như “Người tốt việc tốt”, “Thi đua yêu nước”, “Đền ơn đáp nghĩa”, đặc biệt là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới”… đã phát huy tính tích cực trong việc giáo dục, tuyên truyền, bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa ngay từ cấp cơ sở, từ mỗi người dân và cả cộng đồng xã hội.
Nhờ những nỗ lực của nhà nước, nền văn hóa Việt Nam phát triển thống
nhất trong đa dạng, các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích; hệ