thống các sản phẩm văn hóa góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Các chính sách về phát triển văn hóa đã tạo ra nhịp cầu nối các nhà đầu tư, bạn bè quốc tế đến với Việt Nam, làm cho văn hóa con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu rõ hơn, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Trên lĩnh vực phát triển xã hội: Để xây dựng một xã hội tiến bộ, nhân văn, hướng tới mục tiêu công bằng, dân chủ, văn minh, hệ thống các văn bản pháp luật, các cơ chế chính sách phát triển xã hội luôn được nhà nước kịp thời đánh giá, bổ sung, sửa đổi ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường và hội nhập. Nhà nước cũng xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chiến lược, chương trình quốc gia, các chính sách về phát triển xã hội như: an sinh xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, xóa đói, giảm nghèo; lao động - việc làm; hỗ trợ người khuyết tật, người già neo đơn, các đối tượng chính sách, những người yếu thế…
Những năm đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ hội nhập, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia còn ở mức khá cao, chiếm 58,1% (1993) [5, tr.128], năm 2002, tỷ lệ này còn 29% và đến năm 2010, số hộ nghèo tiếp tục giảm trên một nửa, còn xấp xỉ 10% [22]. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD/người (1990) lên 1200 USD/người (2010). Bình quân cả nước giảm 2% hộ nghèo/năm, riêng các huyện nghèo giảm trên 4%, thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng 2,0 lần trong cùng thời kỳ [2]. Với kết quả đó, Việt Nam đã chuyển vị trí từ nhóm các nước nghèo nhất sang nhóm các nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Thành tựu đó được Liên hợp quốc ghi nhận là: “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỉ lệ nghèo vào năm 2015” [29, tr.80]. Các chính sách về lao động - việc làm cũng đã thể hiện vai trò tích cực đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Từ năm, 2006 - 2011, đã có 8,0 triệu người lao động được giải quyết việc làm, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn 4,5% [31, tr.154]; đời sống của người lao động được đảm bảo với mức tiền lương và thu nhập ổn định, liên tục tăng qua các năm.
Như vậy, trong những năm qua đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng cao; việc làm cho người lao động từng bước được giải
quyết; khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư được nỗ lực rút ngắn, an sinh xã hội bước đầu được đảm bảo, tiêu cực, bất công được từng bước được đẩy lùi. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đặt ra đối với các nước đang phát triển đến năm 2015 [31, tr.154]. Nhờ đó, nhà nước tạo ra môi trường hấp dẫn thu hút các nước, các nhà đầu tư đến Việt Nam. Điều đáng ghi nhận là trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, tình hình kinh tế - xã hội trong nước và thế giới gặp nhiều khó khăn nhưng nhà nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tổ chức thực hiện các chính sách, giải pháp phát triển văn hóa, ổn định và phát triển xã hội đạt những thành tựu đáng kể. Nó chứng minh vai trò to lớn của nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đồng thời khẳng định các chính sách đó phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả tích cực.
Bên cạnh những kết quả tốt đẹp đó, trong quản lý và phát triển văn hóa, xã hội, nhà nước còn bộc lộ những hạn chế thiếu sót nhất định. So với các chính sách kinh tế, các cơ chế, chính sách phát triển văn hóa, xã hội còn chậm đổi mới. Việc xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội chưa ngang tầm đòi hỏi và còn nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết.
Về mặt nhận thức, hiện nay, chưa có quan niệm thật sự thống nhất về vấn đề xã hội hóa các hoạt động dịch vụ, về công bằng và bình đẳng, về sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta. Nhận thức về hội nhập văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vấn đề thị trường trong văn hóa, giáo dục, y tế… vẫn còn những ý kiến khác nhau. Việc giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản vẫn được coi là nhiệm vụ của nhà nước nên chưa thu hút được mạnh mẽ các nguồn lực, các thành phần kinh tế tham gia.
Về thực tiễn, việc kết hợp phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều hạn chế; khoảng cách giữa việc đổi mới chính sách kinh tế và chính sách văn hóa - xã hội bộc lộ rõ nét; nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết tốt; tình trạng tái nghèo còn diễn tiến; khoảng cách chênh lệch giàu
Có thể bạn quan tâm!
- Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Giúp Việt Nam Tận Dụng Thời Cơ, Vượt Qua Thách Thức Trong Thời Kỳ Hội Nhập Để Phát Triển
- Nhà Nước Khai Thác, Sử Dụng Nội Lực Và Ngoại Lực Để Xây Dựng
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Tạo Môi Trường, Điều Kiện Để Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Khai Thác, Sử Dụng
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Khai Thác, Sử Dụng
- Một Số Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Nhà Nước Trong Việc Phát
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
- nghèo giữa các bộ phận dân cư có xu hướng ngày càng lớn; giải quyết việc
làm chưa tạo được sự bứt phá, chưa tạo được nhiều việc làm bền vững; hiện tượng văn hóa ngoại lai xâm lăng và có xu hướng chồng lấn ảnh hưởng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc… Điều đáng chú ý là trong xã hội xuất hiện một số người làm giàu phi pháp, tình trạng tham nhũng, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đang diễn ra phức tạp. Nếu không kiên quyết ngăn chặn tận gốc những hiện tượng này thì nhiều hoạt động quan trọng của nền kinh tế sẽ bị thao túng, không thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội mà ngược lại dễ dẫn đến nguy cơ chệch hướng, gây mất ổn định chính trị, an ninh quốc gia…
Những hạn chế trong việc phát triển văn hóa, xã hội đã làm giảm hiệu quả việc khai thác, khơi dậy những tiềm năng, thế mạnh quốc gia, làm giảm sức hấp dẫn của nội lực với các nhà đầu tư, gây khó khăn cho việc phát huy các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực cho sự phát triển.
3.1.1.4. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, cải cách hành chính tạo môi trường minh bạch, thông thoáng Hoàn thiện hành lang pháp lý, cải cách hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo môi trường minh bạch, thông thoáng, an toàn để phát huy các nguồn lực trong nước, thu hút các nguồn ngoại lực. Để tạo môi trường thuận lợi cho việc phát huy nội lực và ngoại lực, nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp để xây dựng môi trường pháp lý và cải cách hành chính, làm lành
mạnh hóa môi trường đầu tư trong nước.
Trước hết, nhà nước tích cực xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo số liệu của Bộ Tư pháp, từ ngày 01/1/1987 đến ngày 30/11/2008, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan Trung ương ban hành nước ta đã có tới 19126 văn bản, trong đó có 208 luật, bộ luật; 192 pháp lệnh; 2097 nghị định; 267 nghị quyết và 36 thông tư, 1213 thông tư liên tịch [53, tr.120]. Nhà nước ta đồng thời thiết lập và hoàn thiện thể chế, định chế pháp lý như: tòa án, hệ thống kiểm toán quốc gia hòa nhập với hệ thống kiểm toán quốc tế; phát triển hệ thống thông tin, dịch vụ pháp lý; năng lực thực thi pháp luật của các cơ quan hành chính đã được
cải thiện. Những nỗ lực đó từng bước làm cho môi trường pháp lý nước ta phù hợp với các quy định, các thể chế liên kết quốc tế mà nước ta tham gia, tạo niềm tin và độ an toàn pháp lý trong đầu tư kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài mở rộng đầu tư và kinh doanh.
Mặc dù đã tiến hành nhiều giải pháp cải cách thể chế pháp lý nhưng hiện tại khung pháp lý nước ta vẫn chưa đồng bộ. Hệ thống hành pháp chưa thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Quyền lập quy của hệ thống hành pháp không đầy đủ, hệ thống pháp luật vừa thiếu vừa không đồng bộ, không hoàn chỉnh, vừa có những mặt lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu và thông lệ quốc tế, tạo ra môi trường chưa thực sự thuận lợi để phát huy nội lực, ngoại lực, kết hợp nội lực với ngoại lực đạt hiệu quả cao.
Song song với việc hoàn thiện môi trường pháp lý, nhà nước cũng chú trọng công tác cải cách hành chính. Công tác này được đẩy mạnh trên cả bốn nội dung: cải cách thể chế, cải cách bộ máy hành chính, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, cải cách hành chính công. Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề cải cách hành chính quốc gia, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát huy nội lực, ngoại lực nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều biện pháp đã được thực hiện như: thành lập Ban chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ; triển khai chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 với nhiều chương trình thiết thực; các Bộ, ngành, địa phương đều có kế hoạch cải cách hành chính riêng của mình… Nhờ đó, bộ máy hành chính đã có sự cải thiện đáng kể về hiệu lực, hiệu quả hoạt động, gọn nhẹ và thông thoáng hơn, từ đó, góp phần cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh. Phân cấp trung ương - địa phương được đẩy mạnh, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp; cơ chế “một cửa” bước đầu được triển khai ở một số cấp và khâu hành chính. Nhà nước cũng chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ công chức; cải tiến hiệu quả, phương pháp làm việc; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền trong cán bộ công chức.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của việc phát huy nội lực và ngoại lực thì công tác cải cách hành chính còn chậm, hiệu quả thấp. Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, chậm đổi mới; thủ tục hành chính còn rườm rà; đội ngũ cán bộ công chức còn hạn chế về trình độ, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ đồng thời diễn ra. Trong thời gian gần đây, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm… diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số vụ, quy mô, tính chất của mỗi vụ, gây mất niềm tin trong nhân dân về đội ngũ công chức, về vai trò quản lý, điều hành của nhà nước. Đó chính là những lực cản làm cho việc phát huy nội lực và ngoại lực mặc dù đã được thực hiện nhưng chất lượng và hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu và mong đợi.
Như vậy, sau gần 30 năm đổi mới, mở cửa, hợp tác quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo môi trường và điều kiện để phát huy nội lực quốc gia, kích thích mọi tiềm năng thế mạnh trong nước phát triển. Với vai trò tích cực của nhà nước, môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp lý và nền hành chính quốc gia đều có những bước tiến bộ: Chính trị an ninh được đảm bảo, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Văn hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt. Kinh tế tăng trưởng liên tục theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập. Nhờ đó, thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế quốc gia ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn, là môi trường đầu tư an toàn, hiệu quả đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, thực trạng nêu trên còn cho thấy vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường để phát huy nội lực, ngoại lực cũng đã bộ lộ những hạn chế, yếu kém nhất định về trình độ, năng lực quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, tạo ra những rào cản về môi trường và điều kiện để phát huy nội lực, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường trong nước với các nguồn ngoại lực, các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế, ảnh hưởng tới việc phát huy nội lực và ngoại lực hiện nay.
3.1.2. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực
Trong những năm qua, bên cạnh việc phát huy nội lực tạo ra sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, nhà nước ta không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện các nhiều chính sách, biện pháp để chủ động thu hút ngoại lực như: thực hiện công tác thông tin - đối ngoại, đàm phán, ký kết hiệp định song phương, đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế, có chính sách, biện pháp phát huy nguồn lực từ người Việt Nam ở nước ngoài. Vai trò đó của nhà nước được thực hiện cụ thể trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, để mở rộng quan hệ
quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế, hoạt động đối ngoại nói chung và thông tin
- đối ngoại nói riêng, được nhà nước ta đặc biệt quan tâm nhằm thông tin, quảng bá, giới thiệu hình ảnh, môi trường đầu tư hấp dẫn của quốc gia tới bạn bè quốc tế.
Nhà nước đã xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thông tin đối ngoại, tổ chức thực hiện các văn bản đã ban hành theo thẩm quyền được pháp luật quy định; xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình về thông tin đối ngoại; tổ chức bộ máy, xây dựng cơ chế, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thông tin đối ngoại ở trong và ngoài nước; xây dựng, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực hoạt động thông tin đối ngoại. Nhà nước tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu về thông tin đối ngoại; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thông tin đối ngoại; chỉ đạo, hướng dẫn nội dung thông tin cho các cơ quan thông tấn, báo chí của Việt Nam; cung cấp thông tin cho báo chí ở nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế. Nhà nước thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thông tin đối ngoại theo quy định của pháp luật; sơ kết, tổng kết hoạt động thông tin đối ngoại; khen thưởng, kỷ luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thông tin đối ngoại.
Công tác thông tin đối ngoại được nhà nước tổ chức thực hiện với nhiều hình thức và biện pháp như: tăng cường các chuyến viếng thăm của các nguyên thủ quốc gia; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, du lịch; tích cực tham gia và trở thành thành viên không chính thức rồi chính thức của các tổ chức quốc tế; tham gia và tổ chức các hội thảo quốc tế; tăng cường, tạo điều kiện cho hoạt động ngoại giao nhân dân; thường xuyên tổ chức các triển lãm, hội chợ, tuần lễ văn hóa Việt Nam tại các nước trên thế giới; phát huy và sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, báo mạng điện tử, các kênh truyền thanh, truyền hình, truyền hình Việt Nam cho người nước ngoài… Chỉ tính riêng 2012, Việt Nam có 16 đoàn Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta thăm các nước và dự các Hội nghị quốc tế, 30 đoàn Lãnh đạo cấp cao các nước vào thăm ta, nâng số Đoàn trao đổi giữa ta và các nước trong năm 2012 tăng gấp gần 5 lần so với năm 2011 [74]. Thông qua đó, việc thông tin, quảng bá về nội lực Việt Nam với bạn bè quốc tế được triển khai chủ động, sâu rộng tạo được sức hút, sự quan tâm của các nước, các đối tác trong khu vực và trên thế giới.
Nhờ những biện pháp tích cực kể trên, các quốc gia trên thế giới, bạn bè quốc tế, các nhà đầu tư đã hiểu biết hơn về một Việt Nam hòa bình, ổn định, năng động, phát triển và đầy sức hấp dẫn đối với việc đầu tư các nguồn ngoại lực. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới [73]. Có thể điểm lại những dấu ấn đáng ghi nhớ như: Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc (1977); khôi phục và phát triển quan hệ kinh tế Việt - Nhật (1986); bình thường hóa quan hệ với EU (1990), với Trung Quốc (1991); khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính thế giới IMF, WB, ADB (1993); gia nhập tổ chức ASEAN (1995); bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ (1995), ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2001), bình thường hóa hoàn toàn
quan hệ song phương với Mỹ (2006); trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (2007)... Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm thành công cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010. Năm 2013 cũng ghi dấu sự kiện lần đầu tiên sau 18 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam sẽ giữ trách nhiệm Tổng thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013 - 2017, đồng thời ứng cử vào một số cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc như Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Hội đồng Kinh tế và Xã hội (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018 và Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế và khu vực.
Thông tin - đối ngoại đã nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo và tham mưu cho Chính phủ trong quản lý, điều hành đất nước; hỗ trợ đắc lực cho việc tranh thủ tối đa hợp tác quốc tế và các nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển và khắc phục những khó khăn kinh tế - xã hội trong nước; tích cực hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư, du lịch, phối hợp với các ngành xử lý các tranh chấp kinh tế - thương mại quốc tế.
Hoạt động thông tin - đối ngoại được triển khai hiệu quả góp phần khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Tháng 10/2011, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký kết Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển với Trung Quốc tạo ra khuôn khổ quan trọng cho việc xử lý các biến động có thể nảy sinh. Việt Nam cũng đã chủ động, tích cực làm tốt công tác thông tin - đối ngoại để ASEAN đạt được thỏa thuận với Trung Quốc về hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC); thống nhất trong nội bộ ASEAN về các thành tố cơ bản của Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), tạo cơ sở để đàm phán với Trung Quốc cùng các bên liên quan tăng cường hợp tác nhằm duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
Thông tin đối ngoại đã giúp quảng bá với thế giới về nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giúp phát huy “sức mạnh mềm” của