chủ động thu hút ngoại lực bằng nhiều chính sách, biện pháp như: chủ động thông tin quảng bá về nội lực quốc gia, tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định song phương, đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế, tạo dựng uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong các chính sách, biện pháp đó, công tác thông tin - đối ngoại, thực hiện cam kết quốc tế, chính sách thu hút kiều hối và phát huy nguồn lực của kiều bào ta ở nước ngoài có vai trò quan trọng để nhà nước ta chủ động thu hút ngoại lực.
Một là, nhà nước thực hiện nhiệm vụ thông tin - đối ngoại để chủ động
thông tin, quảng bá về môi trường hấp dẫn mà nội lực tạo ra
Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng của công tác đối ngoại và công tác tư tưởng nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; quan điểm, lập trường của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế và khu vực; giới thiệu những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới; về đất nước, con người, lịch sử văn hóa dân tộc; đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, công tác đối ngoại nói chung và thông tin - đối ngoại nói riêng càng có ý nghĩa quan trọng, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, ngoài việc làm tăng sức hấp dẫn của nội lực, nhà nước còn phải tích cực thực hiện công tác thông tin - đối ngoại nhằm quảng bá về nội lực để chủ động thu hút ngoại lực.
Hai là, nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế, chủ động thu hút ngoại lực
Việc thực hiện các cam kết quốc tế tạo ra điều kiện thuận lợi để nước ta không những thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư mà còn là điều kiện để có thể kết hợp nội lực và ngoại lực tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Nội Lực Và Ngoại Lực
- Sự Cần Thiết Phải Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Trong Hội Nhập Quốc Tế Ở Việt Nam Hiện Nay
- Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Giúp Việt Nam Tận Dụng Thời Cơ, Vượt Qua Thách Thức Trong Thời Kỳ Hội Nhập Để Phát Triển
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Tạo Môi Trường, Điều Kiện Để Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Xây Dựng Và Mở Rộng Quan Hệ Quốc Tế Để Chủ Động Thu Hút Ngoại Lực
- Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Khai Thác, Sử Dụng
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
Nhà nước phải thực hiện các cam kết về kinh tế của các tổ chức quốc tế và khu vực như: thực hiện tốt các cam kết trong cộng đồng ASEAN, các cam kết, nguyên tắc và các “luật chơi” chung của WTO để trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín của các tổ chức này.
Bên cạnh việc thực hiện các cam kết về kinh tế, nhà nước ta cũng phải thực hiện các cam kết khác của quốc tế và khu vực về các vấn đề toàn cầu như: an ninh - quốc phòng, môi trường, tài nguyên thiên nhiên, phòng chống dịch bệnh, thiên tai…
Ba là, nhà nước có chính sách, biện pháp để phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài dưới nhiều hình thức, biện pháp như: xây dựng các quỹ phát triển, kêu gọi, huy động kiều bào đầu tư xây dựng quê hương, đất nước…
2.3.3. Nhà nước khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực để xây dựng
và phát triển đất nước
Nội lực và ngoại lực có mối quan hệ biện chứng khăng khít. Quá trình hội nhập quốc tế với đan xen những mối quan hệ phức tạp đã tạo ra điều kiện khách quan để thúc đẩy mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực, làm cho các nguồn lực này ngày càng có sự tác động, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau sâu sắc, có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể tạo ra những lực cản cho sự phát triển. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải có chính sách, biện pháp để khai thác, sử dụng có hiệu quả cả nội lực và ngoại lực nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực từ sự ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau của nội lực và ngoại lực trong quá trình hội nhập.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực còn cho thấy nội lực là yếu tố quyết định so với ngoại lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chỉ đạt được hiệu quả trên cơ sở phát huy nội lực trước tiên. Chỉ khi nhà nước khai thác, phát huy sức mạnh của nội lực đủ sức đối ứng với ngoại lực thì mới có thể sử dụng hiệu quả ngoại lực, xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chỉ khi những giá trị vật chất, tinh thần bên ngoài quốc gia được chuyển hóa trở thành sức
mạnh bên trong của đất nước thì mới phát huy tác dụng, trở thành động lực
cho sự phát triển.
Để làm được điều đó, nhà nước phải phát huy vai trò của mình trong việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nội lực và ngoại lực, kết hợp những yếu tố tích cực của ngoại lực với những tiềm năng, thế mạnh đất nước, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển; đồng thời có chính sách, biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực từ ngoại lực đối với nội lực quốc gia. Vai trò của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật, quy định cho việc khai thác, sử dụng loại nội lực, ngoại lực nào; đầu tư nguồn lực đó cho lĩnh vực nào, ưu tiên lĩnh vực nào (sản xuất, kinh doanh, xây dựng hạ tầng cơ bản hay các vấn đề xã hội); phân bổ nguồn lực ra sao cho từng khu vực kinh tế, từng ngành, từng vùng…
Vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Công trình này không có điều kiện để xem xét, đánh giá việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực trong tất cả các lĩnh vực mà chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong việc sử dụng một số nguồn lực quan trọng cho sự phát triển, đó là nguồn lực con người, vốn, khoa học công nghệ với tính cách là lực lượng sản xuất, quyết định sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay.
Nhà nước tập trung phát huy lợi thế về nguồn nhân lực Việt Nam bởi vì nguồn nhân lực là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực. Đó là lực lượng trực tiếp tham gia vào sản xuất, thu hút đầu tư và cũng là lực lượng trực tiếp, cuối cùng sử dụng và ứng dụng ngoại lực vào điều kiện hiện có để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội. Lợi thế so sánh của Việt Nam về nguồn nhân lực chính là: lực lượng lao động trẻ, dồi dào, thông minh, cần cù chịu khó. Với những yêu cầu của kinh tế tri thức, nguồn lao động phổ thông, giá rẻ đang dần mất đi vị trí lợi thế, thay vào đó là yêu cầu mới về nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao. Do vậy, biểu hiện tập trung vai trò của nhà nước trong việc phát huy lợi thế về
nguồn nhân lực là việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cả hai phương diện thể lực và trí lực. Để làm được điều đó, nhà nước một mặt chăm sóc sức khỏe nhân dân, mặt khác không ngừng quan tâm đến việc đào tạo và hợp tác đào tạo lao động, đáp ứng đòi hỏi của đất nước và thế giới hiện nay.
Vốn là nguồn lực có vai trò quan trọng, được các nhà khoa học nhận định là chìa khóa cơ bản cho tăng trưởng của Việt Nam từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Do vậy, nhà nước có chính sách phát huy mọi nguồn vốn, làm tăng quy mô vốn đầu tư phát triển, chuyển đổi cơ cấu vốn theo hướng tiến bộ, huy động được nhiều vốn từ nguồn ngoài quốc doanh, tăng cường dự trữ trong nước để chủ động ứng phó với các diễn biến bất ngờ của nền kinh tế, xã hội trong nước và thế giới…
Khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp có ý nghĩa quyết định sự phát triển của đất nước. Nhà nước tập trung đầu tư, phát triển khoa học, công nghệ trên các lĩnh vực như: các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng; xây dựng khu công nghệ cao, phòng thí nghiệm…
2.3.4. Nhà nước định hướng việc phát huy bền vững nội lực và ngoại lực đảm bảo mục tiêu phát triển của đất nước
Nhà nước một mặt tạo môi trường và điều kiện để phát huy nội lực nâng cao sức hấp dẫn của nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút ngoại lực; khai thác và sử dụng nội lực, ngoại lực; mặt khác còn thực hiện các biện pháp định hướng để việc phát huy nội lực, ngoại lực được duy trì và đạt kết quả bền vững trong những giai đoạn tiếp theo, đảm bảo mục tiêu, chiến lược phát triển của đất nước. Để thực hiện vai trò này, nhà nước sử dụng những công cụ hữu hiệu sau:
Thứ nhất, nhà nước định hướng việc phát huy nội lực, ngoại lực bằng
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch
Kế hoạch hóa có vai trò trung tâm chủ đạo trong hệ thống các công cụ cơ bản của quản lý kinh tế. Đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, nhà nước trên cơ sở những thế mạnh, hạn chế của nội lực và những thuận lợi, thách thức ngoại lực mang lại để lập kế hoạch phát huy nội lực, ngoại lực đảm bảo định hướng phát triển của đất nước.
Kế hoạch của nhà nước trong quá trình thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực thường được thể hiện dưới hình thức là các chính sách phát triển, các chương trình mục tiêu và khái quát cho cả thời kỳ là các chiến lược, quy hoạch tổng thể của việc huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực phát triển của quốc gia.
Kế hoạch hóa giúp hoạch định việc phát huy nội lực và ngoại lực trong các giai đoạn phát triển tiếp theo như thế nào, tập trung phát huy các nội lực nào, tranh thủ ngoại lực ở phạm vi, cấp độ nào, trên các lĩnh vực gì, phân bổ nguồn lực giữa các ngành, vùng như thế nào… Kế hoạch hóa làm cho nội lực và ngoại lực được khai thác có hiệu quả, đồng thời định hướng cho sự phát triển các nguồn lực này trong các giai đoạn tiếp theo.
Kế hoạch hóa của nhà nước cũng hướng vào giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát huy nội lực, thu hút ngoại lực; phối hợp giữa phát triển kinh tế và chính sách xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Trên cơ sở kế hoạch, nhà nước xây dựng thành các chương trình đầu tư, thực hiện các chương trình mục tiêu đó, đảm bảo các cân đối lớn trên tầm vĩ mô của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.
Thứ hai, nhà nước định hướng việc phát huy nội lực, ngoại lực bằng các
công cụ điều tiết vĩ mô
Pháp luật là phương tiện, công cụ quản lý, tạo lập môi trường thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển hợp quy luật của các quan hệ kinh tế nói chung cũng như việc phát huy nội lực và ngoại lực nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều khó khăn, thách thức, vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật càng có ý nghĩa quan trọng để phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, đảm bảo các mục tiêu phát triển của đất nước. Nhờ công cụ pháp luật, nhà nước có thể kiểm soát sự phát triển của nội lực và ngoại lực, tránh sự phát triển tự phát bất lợi cho tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội. Công cụ pháp luật giúp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những động cơ chính trị ẩn dưới hình thức đầu tư ngoại ngoại lực, hợp tác
quốc tế làm phương hại đến các mục tiêu phát triển đất nước. Bằng công cụ pháp luật, nhà nước khai thác, sử dụng có hiệu quả và bảo vệ, duy trì việc phát huy nội lực, ngoại lực hiện có, đồng thời, tạo môi trường để kích thích, phát huy mối quan hệ đó.
Nhà nước sử dụng chính sách thuế nhằm một mặt bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết cung - cầu, giá cả thị trường nội địa; mặt khác có thể khuyến khích hoặc hạn chế việc thu hút ngoại lực, chẳng hạn như khuyến khích hoặc hạn chế việc đầu tư vào một ngành, một sản phẩm, dịch vụ nào đó… Như vậy, chính sách thuế có tác dụng khơi thông và thực hiện có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập về kinh tế, chính sách thuế sẽ ngày càng bị thu hẹp, nhà nước cần phải rà soát, đổi mới các sắc thuế theo hướng minh bạch, ổn định, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Với chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, có vai trò ổn định, lành mạnh hóa các loại thị trường tài chính, tăng quy mô nguồn tài chính hợp lý, hiệu quả, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững… Với việc sử dụng chính sách này, nhà nước phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để duy trì, kích thích các việc kết hợp nội lực và ngoại lực, đặc biệt là trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách thương mại cũng được nhà nước sử dụng để khai thác hiệu quả các nguồn lực, kích thích sản xuất trong nước, phát huy nội lực quốc gia, tăng cường việc thu hút ngoại lực, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Theo cơ chế quản lý chính sách thương mại bao gồm: chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tự do thương mại nội địa và chính sách thương mại quốc tế. Trong đó, chính sách thương mại quốc tế kết hợp với chính sách đầu tư, hợp tác quốc tế tạo thành chính sách kinh tế đối ngoại của quốc gia.
Chính sách đầu tư được nhà nước sử dụng để tác động, kiểm soát và kích thích hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, nhà nước
tăng cường sử dụng các chính sách đầu tư, hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý hiện đại… Chính sách đầu tư, hợp tác nước ngoài nếu được sử dụng tốt sẽ kích thích sự đầu tư của các nguồn ngoại lực, sử dụng hiệu quả và nhân lên nội lực hiện có của quốc gia.
Tiểu kết chương 2
Phát huy nội lực, ngoại lực và các nguồn lực để phát triển là nội dung đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, bàn luận ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Trong quá trình hội nhập quốc tế, phát huy nội lực và ngoại lực là yêu cầu đối với nước ta để phát triển. Do đó, trong Chương 2 của luận án, tác giả bày những quan niệm về nội lực, ngoại lực, phát huy nội lực, ngoại lực; sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế là quá trình rất phức tạp với cả những thời cơ lớn và thách thức lớn tác động đến việc phát huy nội lực và ngoại lực. Để phát huy những lợi ích và giảm thiểu tác động tiêu cực của ngoại lực đối với nội lực quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc làm cần thiết là phải nâng cao vai trò của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực. Vì vậy, trong chương này, tác giả tác giả cũng tập trung đi sâu tìm hiểu những biểu hiện của vai trò nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực, đó là: nhà nước tạo lập môi trường, điều kiện để phát huy nội lực, ngoại lực; nhà nước thiết lập và mở rộng quan hệ quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực; nhà nước kết hợp nội lực và ngoại lực trên cơ sở phát huy nội lực, nội lực hóa ngoại lực; nhà nước định hướng việc phát huy bền vững nội lực và ngoại lực đảm bảo mục tiêu phát triển đất nước.
Những nội dung nêu trên là cơ sở để tác giả đi sâu nghiên cứu đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế ở chương sau.
Chương 3
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phát huy nội lực và ngoại lực đã trở thành bài học quý báu, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên sau khi đất nước được hoàn toàn độc lập và thống nhất (1975), đặc biệt là giai đoạn 1980 - 1985, do nhiều điều kiện khách quan, chủ quan, chúng ta chưa vận dụng đúng đắn hiệu quả bài học này vào thực tiễn dưới chế độ, quan liêu bao cấp, tự cấp tự túc, “bế quan tỏa cảng”… Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng trên đất nước ta nửa đầu thập niện 80 của thế kỷ XX.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đánh dấu bước ngoặt mới trong lịch sử dân tộc, mở ra thời kỳ đổi mới để phát triển. Đảng ta chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có dự điều tiết của nhà nước, “mở cửa”, hợp tác với thế giới. Đây là những dấu mốc bước đầu cho tinh thần hội nhập quốc tế của nước ta. Tại Đại hội này, Đảng ta nhấn mạnh bài học kinh nghiệm: “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” [26, tr.81].
Đại hội lần thứ VII của Đảng chính thức mở ra quá trình hội nhập của nước ta. Quán triệt và phát huy bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) của Đảng khẳng định: