Một Số Quan Điểm Có Tính Nguyên Tắc Đối Với Nhà Nước Trong Việc Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Trong Hội Nhập Quốc Tế Ở Việt Nam Hiện Nay


tế và những vấn đề đặt ra trong quan hệ, hợp tác với các nước. Chúng ta chưa tạo được quan hệ thật sự ổn định, lâu dài, vững chắc với các nước lớn; chưa xây dựng được mối quan hệ lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau với các nước này. Chúng ta chưa coi trọng đúng mức và chủ động thu hút các nguồn đầu tư gián tiếp. Việc xử lý một số vấn đề trong nước không tính đến phản ứng của dư luận quốc tế; việc thực thi cam kết, các hiệp định thương mại còn chậm, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cải cách hành chính còn nhiều hạn chế… ít nhiều làm giảm sút sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, làm giảm tính hiệu quả và chủ tính tích cực, chủ động của các chính sách, biện pháp thu hút ngoại lực của Nhà nước.

Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chưa thực sự hiệu quả, còn gây thất thoát, lãng phí lớn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát huy bền vững các nguồn lực. Việc phân bổ, khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực còn chưa thực sự khoa học và hợp lý, còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm đối với các ngành, vùng và một số lĩnh vực đời sống. Nhiều nguồn ngoại lực chậm giải ngân, thiếu hiệu quả, thiếu minh bạch làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư. Trong nhiều trường hợp cụ thể, việc kết hợp nội lực và ngoại lực đã được xác lập song chưa bền vững hoặc do sai phạm của các nhân, tổ chức mà có nguy cơ bị phá vỡ. Chúng ta thiếu lộ trình thật chủ động định hướng cho việc phát huy, kết hợp nội lực và ngoại lực; chiến lược vay và trả nợ nước ngoài chưa được chuẩn bị thật tốt… Đó là những khó khăn, thách thức cho việc phát huy mọi nguồn lực xây dựng và phát triển bền vững đất nước trong tương lai.


Chương 4

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Để việc phát huy nội lực và ngoại lực đạt hiệu quả, tránh được những tác động không thuận chiều đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta, trong quá trình phát huy nội lực và ngoại lực, nhà nước cần thực hiện những quan điểm có tính nguyên tắc sau:

4.1.1. Nhà nước thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

sự phát triển nhanh và bền vững

Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững là yêu cầu bắt buộc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011 - 2020 được Đảng ta thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu rõ 5 quan điểm về phát triển bền vững, đó là: Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng [31, tr.98-102].

Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 16

Do vậy, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững đất nước là yêu cầu, là quan điểm mang tính nguyên tắc đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước.


Nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh và bền vững nghĩa là nhà nước phải đảm bảo hiệu quả phát huy nội lực, ngoại lực ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dại hạn, phải tính đến tác động của việc phát huy nội lực và ngoại lực trên tổng thể và ở từng lĩnh vực của đời sống.

Nhà nước phải quan tâm đến việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu; phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng; phải coi trọng bảo vệ và cải thiện tài nguyên thiên nhiên và môi trường ngay trong từng bước phát triển; phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, coi đây là điều kiện, tiền đề để phát triển nhanh và bền vững.

Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển nhanh và bền vững chỉ có thể có được khi nhà nước biết tận dụng mọi thời cơ mà điều kiện khách quan tạo ra, tranh thủ mọi nguồn ngoại lực trên cơ sở phát huy nội lực trước tiên; coi phát huy nội lực là yếu tố quyết định và ngoại lực là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngoại lực chỉ phát huy tác dụng thông qua nội lực.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ biết phát huy mọi nguồn nội lực trong nước, “dựa vào sức mình là chính” kết hợp với việc tranh thủ mọi nguồn ngoại lực, sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cách mạng Việt Nam đã giành những thắng lợi vĩ đại, góp phần vào cuộc giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, trước sự tác động từ nhiều phía của các nguồn ngoại lực khác nhau, thậm chí có những đầu tư mang động cơ chính trị, kinh tế không lành mạnh, nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực trên cơ sở phát huy nội lực trước tiên để đảm bảo một nền độc lập vững chắc, một nền kinh tế, độc lập, tự chủ, một xã hội ổn định, phát triển nhanh


và bền vững, để Việt Nam tích cực, chủ động trên con đường hội nhập với nền

kinh tế toàn cầu, khẳng định uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

4.1.2. Nhà nước thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo

phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong quá trình phát huy nội lực và ngoại lực, nhà nước phải đảm bảo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, nhà nước cần chú ý một số điểm sau:

Một là, việc phát huy nội lực và ngoại lực phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều đó có nghĩa là, nhà nước dù có liên kết, hợp tác, tranh thủ ngoại lực từ quốc gia, tổ chức hay lực lượng nào thì vẫn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là thế giới quan, phương pháp luận, là kim chỉ nam cho mỗi hoạt động phát huy nội lực và ngoại lực. Chỉ có như vậy, mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn mới được đảm bảo, giữ vững. Điều đó định hướng cho đường lối đối ngoại, hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước ta với các quốc gia, tổ chức và toàn thể nhân loại tiến bộ, nó là nhân tố tiên quyết dẫn đường cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử hào hùng, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hôm nay và trên con đường đi tới tương lai.

Hai là, nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực phải tạo ra những điều kiện để hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường và hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, phát huy sức sản xuất trong nước, phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, càng đi sâu vào kinh tế thị trường, càng cần chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đồng nghĩa với nó là trong quá trình phát huy nội lực và ngoại lực, nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn nữa cho các vấn đề xã hội, bên cạnh việc tăng cường xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Ba là, nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực phải đảm bảo nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế. Đây là điều kiện để đảm bảo nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo chủ động hội nhập thì nền kinh tế thị trường mới có điều kiện phát triển. Chỉ khi việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo xây dựng một nền kinh tế tự chủ thì mới có thể đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị quốc gia. Để làm được điều đó, nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực phải có lộ trình, bước đi tích cực phù hợp với chiến lược, mục tiêu phát triển đất nước.

4.1.3. Nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực bảo đảm kết hợp hài hòa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế

Trên tinh thần nhận thức mối quan hệ biện chứng, sự tác động ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau giữa nội lực và ngoại lực, Đảng và nhà nước ta đồng thời nhận thức rằng, sức mạnh tổng hợp của dân tộc, nội lực của quốc gia chỉ có thể được nhân lên khi cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung, tuân theo xu hướng khách quan của thời đại đó là: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng để đạt được mục tiêu chung ấy, thì trong quá trình hợp tác quốc tế, quyền và lợi ích của dân tộc và quốc tế phải được đảm bảo. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở các nước, các dân tộc tôn trọng quyền dân tộc cơ bản lẫn nhau, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi.

Vì vậy, để phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, nhà nước cần đảm bảo nguyên tắc phát huy nội lực và ngoại lực trên cơ sở bảo đảm kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế. Trong khi giải quyết các vấn đề quốc gia trên cơ sở chế định, luật pháp quốc gia, nhà nước đồng thời đảm bảo thực hiện các chế định quốc tế theo nguyên tắc đảm bảo quyền dân tộc cơ bản, bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi góp phần giải quyết các vấn đề quốc tế, các vấn đề toàn cầu vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nguyên tắc này đặt nền móng cho phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.


Những quan điểm có tính nguyên tắc đối với nhà nước ta trong việc phát huy nội lực và ngoại lực đã được kiểm nghiệm trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng và đến này vẫn còn ý nghĩa thời sự. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều nguy cơ, thách thức đặt ra cho sự phát triển của đất nước, hơn bao giờ hết, nhà nước phải phát huy vai trò của mình huy động, phát huy mọi nguồn nội lực và ngoại lực một cách có nguyên tắc để đảm bảo phát triển nhanh, bền vững, đúng định hướng, đảm bảo lợi ích và thịnh vượng của quốc gia, dân tộc và nhân loại tiến bộ.

4.2. MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ thực trạng vai trò nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực ở nước ta hiện nay, để giải quyết những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, luận án đề xuất bốn nhóm giải pháp sau:

4.2.1. Nhóm giải pháp về học tập kinh nghiệm quốc tế trong việc

phát huy nội lực và ngoại lực

Để phát triển kinh tế - xã hội, mỗi quốc gia đều có chiến lược phát huy nội lực, thu hút ngoại lực riêng. Kinh nghiệm cho thấy quốc gia nào biết phát huy nội lực và ngoại lực một cách đúng đắn thì gặt hái được nhiều thành công và mau chóng trở thành những đất nước hùng mạnh như: Hàn Quốc, Đức, Nhật và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á… ngược lại, có những quốc gia như các nước Mỹ La tinh lại trở nên phụ thuộc vào ngoại lực. Đó là những kinh nghiệm đáng quý cho các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Học tập kinh nghiệm của các nước cũng chính là chúng ta khai thác một ngoại lực quý báu, bổ sung tri thức và kỹ năng quản lý nguồn lực cho sự phát triển của nước ta. Chúng ta cần học hỏi và có thể vận dụng một số kinh nghiệm quý sau:


4.2.1.1. Kinh nghiệm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tập trung xây dựng đất nước, phát huy nội lực, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển

Thứ nhất, để xây dựng nhà nước vững mạnh, các nước tập trung bài trừ tệ nạn tham nhũng, quan liêu trong trong bộ máy chính quyền nhằm củng cố sức mạnh nhà nước, tăng cường niềm tin của nhân dân.

Các nước đã sử dụng các thiết chế tổ chức đặc biệt và các biện pháp khá mạnh để loại trừ tệ tham nhũng, quan liêu. Trung Quốc thành lập các cơ quan phòng chống tham nhũng từ trung ương tới địa phương, trong đó có cả cơ quan phòng chống tham nhũng bí mật (CCDI). Hàn Quốc chú trọng tăng cường hệ thống kiểm soát tham nhũng mà hạt nhân là Uỷ ban chống tham nhũng trực thuộc Tổng thống; tạo sự phối hợp và tăng cường hiệu quả hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan phòng chống tham nhũng, cơ quan hành pháp, tư pháp, cơ quan an ninh, cơ quan giám sát. Singapore thành lập Ủy ban (Cục) điều tra hành động tham nhũng CPIB (Corrupt Practices Investygation Bureau) đặt dưới quyền Văn phòng Thủ tướng. CPIB Singapore có quyền hạn rất lớn, có nhiệm vụ điều tra về các vụ tố cáo tham nhũng của lãnh đạo, công chức, nhân viên trong các khu vực công. Inđônêxia thành lập Ủy ban Kiểm toán COA (Commision on Audit) có quyền ra thông tư và kiểm soát bộ máy hành chính. Hiến pháp Inđônêxia giao cho COA quyền: kiểm tra, kiểm soát và giải quyết tất cả các lĩnh vực kế toán liên quan đến tổng thu, chi hoặc sử dụng các quỹ và tài sản của chính phủ. COA vì vậy bảo đảm các hoạt động công được thực hiện vì lợi ích của nhân dân và tạo ra lợi ích công cao nhất. Ngoài ra, Inđônêxia còn thực hiện Chương trình loại bỏ bệnh quan liêu DART (Do Away Rad Tape). Chương trình này khuyến khích các báo cáo của công dân với thái độ bất lịch sự, vô kỷ luật và thiếu năng lực chuyên môn của công chức trong bộ máy nhà nước.

Thứ hai, các nước tập trung xây dựng hệ thống pháp lý mạnh, cải cách

hành chính, tạo sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước

Trung Quốc, Hàn Quốc đều quan tâm xây dựng hành lang pháp lý, hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ có tính khả thi cao. Chính phủ chú trọng


xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, điều chỉnh hoạt động của các công ty đa quốc gia để vừa tạo điều kiện cho các công ty này hoạt động hiệu quả, vừa buộc các công ty đóng góp vào các mục tiêu tăng trưởng của đất nước. Ở Singapore, để kích thích hoạt động của các công ty đi vào tự động hóa, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, chính phủ đã miễn thuế lợi tức cho các công ty và kéo dài thời gian miễn thuế. Thái Lan miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3 đến 8 năm, miễn thuế nhập khẩu tới 90% đối với nguyên liệu. Trung Quốc ưu đãi đặc biệt về thuế, cho thuê đất đai… đối với các dự án đầu tư vào các đặc khu kinh tế, khu công nghiệp.

Song song với các biện pháp trên, các nước này cũng đặc biệt quan tâm đến việc cải cách hành chính, thực hiện chế độ “một cửa”, phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan quản lý và ngành chức năng, có sự hướng dẫn chi tiết, chu đáo với phương châm phục vụ nhân dân được nhiều nhất. Nhờ vậy, chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước được nâng lên, môi trường kinh tế trở nên thông thoáng tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế làm ăn có hiệu quả, mối quan hệ giữa nhân dân và chính phủ ngày càng gần gũi.

Thứ ba, tập trung trí tuệ cao độ cho các hoạt động của nhà nước thông qua cơ chế đào tạo, sử dụng và nuôi dưỡng nhân tài.

Việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức được tiến hành bài bản, dưới nhiều hình thức. Việc tuyển dụng được thực hiện công bằng, minh bạch, nghiêm túc, khắt khe; thậm chí có cơ chế lựa chọn, sàng lọc, đào tạo nhân tài từ nhỏ. Trung Quốc, Singapore, Malaysia đều là những nước có cơ chế phát hiện tuyển chọn nhân tài từ nhỏ; tổ chức đào tạo và sàng lọc để cung cấp cho nhà nước nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước tinh giảm biên chế theo hướng giảm số lượng nhưng tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; có chính sách lương, thưởng thỏa đáng đảm bảo cho công chức đủ sống và làm việc với tinh thần phục vụ công dân và xã hội tốt nhất, không bị sa ngã, cám dỗ bởi đồng tiền bất chính, cùng với đó là các biện pháp xử lý rất nghiêm những trường hợp vi phạm. Chính sách và pháp luật về đạo đức công chức được ban hành và thực hiện nghiêm minh nhằm duy trì tốt các quan hệ

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 15/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí