Cần có chiến lược tìm nguồn, đào tạo, công chức đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài. Muốn vậy, cần làm tốt công tác giáo dục - đào tạo; đào tạo theo định hướng, theo yêu cầu và tiêu chuẩn của nhà nước đặt ra đối với cán bộ công chức.
Bốn là, nâng cao năng lực và hiệu quả tổ chức thực hiện của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực.
Để việc phát huy nội lực và ngoại lực được và đạt được hiệu quả cả trong khai thác, phân bổ, sử dụng hợp lý các nguồn lực, nhà nước phải thể chế hóa chủ trương, đường lối phát huy nội lực và ngoại lực của Đảng thành chính sách, chương trình; phải tiến hành tổ chức thực hiện một cách khoa học, có hiệu quả những chủ trương, chính sách đó. Muốn vậy, nhà nước cần:
Nâng cao năng lực dự báo, phân tích, nắm bắt tình hình thực tiễn về nội lực, ngoại lực; khả năng đối ứng của nội lực trước ngoại lực, khả năng kết hợp nội lực và ngoại lực; những tác động tích cực và tiêu cực của ngoại lực tới ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và quyền lực nhà nước. Do đó, nhà nước cần xây dựng cơ quan dự báo, xây dựng hệ thống thông tin và cơ chế xử lý thông tin, bám sát thực tiễn, nắm được xu thế vận động khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự vận động của các nguồn lực, dự báo được tình hình để có phương án xử lý kịp thời.
Nâng cao năng lực cụ thể hóa đường lối, chính sách, năng lực ứng phó linh hoạt, hiệu quả của nhà nước trước những biến động, tác động phức tạp của các nguồn ngoại lực. Nguồn ngoại lực được đầu tư ồ ạt, quá lớn, không có kế hoạch hoặc nội lực không đủ khả năng đối ứng với những ngoại lực đó đều có thể gây mất cân đối vĩ mô, làm suy giảm phạm vi tác động và quyền lực của nhà nước, gây những bất ổn về chính trị, xã hội và mất an toàn cho an ninh, quốc phòng, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đúng định hướng của đất nước. Do vậy, năng lực cụ thể hóa đường lối chính sách, năng lực ứng phó linh hoạt của nhà nước là hết sức cần thiết. Để làm được điều đó, nhà nước cần nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, nhà quả lý đảm bảo yêu cầu có tầm nhìn bao quát và dài hạn, có tư duy năng động, phương pháp biện
chứng, khách quan trong chỉ đạo, điều hành; đổi mới cách thức chỉ đạo, tránh áp đặt, mệnh lệnh hành chính mà cần kích thích tính chủ động, sáng tạo, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của nhà quản lý, đội ngũ công chức hay mỗi cá nhân, tập thể.
Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo thực tiễn, tổng kết thực tiễn của nhà nước. Để làm tốt công tác chỉ đạo, nhà nước cần chiến lược hóa, kế hoạch hóa, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, triển khai việc kết hợp nội lực và ngoại lực phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn của quốc gia hay từng vùng lãnh thổ, từng ngành, từng thành phần kinh tế; đồng thời, nhà nước cũng cần tổ chức giám sát, thanh tra, kiểm tra thường xuyên, định kỳ việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch kể trên; mặt khác cũng thường xuyên tổ chức giao ban, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của cơ sở trong quá trình tiến hành kết hợp nội lực và ngoại lực.
4.2.3. Nhóm giải pháp phát huy vai trò nhà nước trong việc thu hút
Có thể bạn quan tâm!
- Mâu Thuẫn Giữa Yêu Cầu Nâng Cao Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Việc Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Trong Hội Nhập Quốc Tế Với Những Hạn Chế Của
- Một Số Quan Điểm Có Tính Nguyên Tắc Đối Với Nhà Nước Trong Việc Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực Trong Hội Nhập Quốc Tế Ở Việt Nam Hiện Nay
- Kinh Nghiệm Mở Rộng Quan Hệ Quốc Tế, Tranh Thủ Mọi Nguồn
- Nhà Nước Phát Huy Dân Chủ Và Sức Mạnh Của Khối Đại Đoàn Kết Toàn Dân Trong Việc Phát Huy Nội Lực Và Ngoại Lực
- Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 20
- Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 21
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
ngoại lực
Hội nhập quốc tế là xu thế của thời đại, mở ra cơ hội để các nước, các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau, ngày càng có tác động, ảnh hưởng đến nhau sâu sắc. Do vậy, xây dựng, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các đối tác trên thế giới là yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam để thu hút ngoại lực, bổ sung sức mạnh cho nội lực trong quá trình phát triển. Để phát huy vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và mở rộng hợp tác quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực, nhà nước cần thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, nhà nước cần làm tốt công tác ngoại giao, mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, làm tốt công tác thông tin đối ngoại. Đây là nhiệm vụ căn bản của công tác đối ngoại ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, tạo ra môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để chủ động thu hút các nguồn ngoại lực kết hợp với nội lực làm thành sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, nhà nước cần nhất quán thực hiện và cụ thể hóa quan điểm của Đảng về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; thực hiện chính sách ngoại giao mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Nhà nước cần chú trọng đưa các quan hệ đã thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững; củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới, mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Nhà nước phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong hợp tác quốc tế, với sự tác động phức tạp từ nhiều phía, đan xen cả thuận lợi và những thách thức đối với sự phát triển đất nước và lợi ích dân tộc, việc làm cần thiết là phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung của nhà nước đối với hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân; kết hợp thực hiện chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, thông tin đối ngoại, quốc phòng an ninh. Cụ thể là:
Phát triển công tác ngoại giao nhân dân theo phương châm “chủ động, sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả”. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để tranh thủ sự hỗ trợ về ngoại lực cho sự phát triển.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích quốc gia. Nhà nước cần chủ động và hội nhập quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước; tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, ra soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quan, ổn định và minh bạch; phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập quốc tế.
Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại nhằm quảng bá tới bạn bè quốc tế hình ảnh một Việt Nam hòa bình, ổn định, phát triển là môi trường hấp dẫn, hiệu quả với các nước, các nhà đầu tư; từ đó tăng cường sự hợp tác, tình hữn nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại âm mưu lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Việt Nam.
Chăm lo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ chuyên môn, năng lực, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học.
Thứ hai, nhà nước cần phải tích cực thực hiện các cam kết quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới và khu vực, đảm bảo uy tín quốc gia đối với thế giới. Nhà nước cần xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế mà nước ta đã kỹ kết với các nước, các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới. Bên cạnh đó, nhà nước cần tăng cường công tác triển khai thực hiện các cam kết; tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết đó về tiến độ, chất lượng và hiệu quả. Thường xuyên tổng kết việc thực hiện cam kết quốc tế để rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời nghiên cứu, phân tích, đánh giá những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện cam kết quốc tế, chủ động trong việc thực hiện các biện pháp phát triển sản xuất, dịch vụ, phát triển văn hóa, xã hội trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thứ ba, nhà nước tiếp tục cải cách hành chính, hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là biện pháp hữu hiệu tạo ra môi trường thông thoáng, thuận lợi cho việc phát huy nội lực và ngoại lực đạt hiệu quả. Nhà nước cần thực hiện những giải pháp sau:
Nhà nước tiến hành cải cách thể chế: xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cả về thể chế tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước; đổi mới quy trình
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm việc tổ chức, thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, giảm bớt các thủ tục phiền hà.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính tinh giảm, gọn nhẹ, thống nhất, thông suốt, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả: Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp tránh chồng chéo trong quản lý. Thực hiện quy định về phân cấp quản lý, nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy từ trung ương đến địa phương. Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp. Thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính.
Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Đổi mới công tác lựa chọn, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, quy hoạch cán bộ; cải cách tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức; tiến hành thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức cho cán bộ công, công chức nhà nước.
Cải cách tài chính công theo hướng thực hiện dân chủ hóa, công khai, minh bạch về tài chính công. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính và ngân sách bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương, đồng thời phát huy trính chủ động, năng động, sáng tạo, trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hành làng pháp lý: Nhà nước cần xúc tiến thực hiện có hiệu quả việc rà soát lại toàn bộ hệ thống luật pháp và các văn bản, chính sách hiện hành để phát hiện và sửa đổi kịp thời những quy định còn chồng chéo, còn thiếu hoặc chưa phù hợp với cam kết, luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các cam kết của WTO. Xây dựng một hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đầy đủ hơn, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, nâng cao chất lượng các văn bản quy
phạm pháp luật theo hướng giảm tối đa thủ tục, khắc phục tình trạng chồng
chéo hoặc thiếu cụ thể.
Xây dựng và thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp. Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút các nguồn ngoại lực. Tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ, phù hợp với các cam kết của nước ta. Đa dạng hóa hình thức và cơ chế đầu tư. Bảo đảm tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn của chính sách đầu tư.
Để nâng cao chất lượng của hệ thống luật pháp, cần đổi mới cách thức làm luật theo một quy trình hợp lý với sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia luật, các nhà quản lý, người kinh doanh, nhân dân. Sự liên kết rộng rãi đó cho phép khắc phục tới mức thấp nhất sự mâu thuẫn, thiếu đồng thuận trong các văn bản pháp quy tạo ra. Ban hành kịp thời, đầy đủ và đồng bộ hơn các văn bản dưới luật và văn bản hướng dẫn để luật đã ban hành sớm đi vào cuộc sống.
Để góp phần đảm bảo luật pháp, các cơ chế, chính sách, các văn bản pháp quy đã ban hành thực sự đi vào cuộc sống, cần tuyên truyền, giáo dục và có các biện pháp hữu hiệu để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đầy đủ, tự giác làm theo pháp luật và quy định; thi hành và cưỡng chế thi hành luật đối với mọi tổ chức công dân; cần tạo ra cơ chế cho nhân dân trong và ngoài nước kiểm tra, giám sát lại đối với các cơ quan thực thi pháp luật.
4.2.4. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của nhà nước trong việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên cơ sở phát huy nội lực và nội lực hóa ngoại lực
Việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả nội lực và ngoại lực có ý nghĩa to lớn, đảm bảo sự phát triển nhanh và phát triển bền vững của quốc gia. Nội lực và ngoại lực chỉ có thể được khai thác, sử dụng hiệu quả trên cơ sở nhà nước phát huy nội lực đủ mạnh, đủ sức đối ứng với ngoại lực; nội lực hóa ngoại lực, biến sức mạnh bên ngoài thành sức mạnh quốc gia để phát triển. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
4.2.4.1. Nhà nước phát huy mọi tiềm năng, lợi thế quốc gia, tạo môi trường thuận lợi để nội lực và ngoại lực được phát huy
Thứ nhất, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, phát triển văn hóa, xã hội là giải pháp hàng đầu nhằm tạo ra sự ổn định, an toàn và hấp dẫn của môi trường đầu tư. Từ việc phát triển văn hóa, giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ khắc phục được mặt trái của kinh tế thị trường, tác động không mong muốn của quá trình phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế; đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ, văn minh.
Để đảm bảo chính trị, an ninh quốc gia, nhà nước cần tuyệt đối trung thành với sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; đảm bảo ổn định chính trị, trật tự an ninh quốc gia. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh an ninh quốc phòng trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước. Thực hiện các chính sách, biện pháp bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; kiên quyết đẩy lùy và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá thù địch. Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước đối với hoạt động quốc phòng, an ninh chính trị quốc gia.
Để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, nhà nước cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước; đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh. Bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến khích sáng tạo văn hóa. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình, xuất bản và phát hành sách, chú ý đặc biệt đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, xây dựng thiết chế văn hóa. Mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới. Đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, thông tin.
Về ổn định và phát triển xã hội, nhà nước cần “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”, “kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững” [32, tr.124]. Nhà nước phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả: một mặt, xây dựng mạng lưới an sinh xã hội bao gồm các chương trình và biện pháp ngắn hạn (hỗ trợ tài chính, hỗ trợ tự tạo việc làm…); mặt khác, về lâu dài, phải xây dựng hệ thống an sinh xã hội đồng bộ, hoạt động hữu hiệu, đảm bảo bao phủ tối đa các nhóm dân cư trong xã hội; tiếp tục đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa các nhóm dân cư; mở rộng và cải cách quỹ bảo hiểm, chính sách bảo hiểm với các đối tượng dân cư, thực hiện các biện pháp đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN là giải pháp mang tính quyết định trong việc phát huy nội lực.
Phát huy nội lực giúp tăng cường tiềm năng, sức mạnh quốc gia, là điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Ngược lại, chỉ khi đảm bảo được nền kinh tế độc lâp, tự chủ, vận động theo quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, có sự định hướng của nhà nước, không bị chi phối, lệ thuộc bởi các yếu tố ngoại lực, chúng ta mới đảm bảo phát huy tối đa được sức mạnh của nội lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để làm được điều đó, nhà nước cần:
Độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh quốc tế, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế, xã hội; phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo vai trò quyết định của nội lực.