các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Năm 1979, Đại hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm, như “Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người”,“Du lịch là giấy thông hành của hòa bình”..., kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Vai trò của du lịch đối với văn hoá
Mỗi dân tộc đều có những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán đặc trưng nhất định. Những yếu tố văn hóa truyền thống đó được tích tụ từ lâu đời và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc giao lưu văn hóa với nhau. Thông qua các hành trình du lịch, những giá trị văn hoá độc đáo của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia sẽ được phát huy, được tôn vinh đồng thời có sự giao thoa trong các nền văn hóa của mỗi dân tộc. Sự giao thoa đó làm cho nền văn hóa nhân loại cũng như nền văn hóa của mỗi dân tộc ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Du lịch cũng là hoạt động góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nguồn thu từ du lịch văn hóa sẽ được tái đầu tư để phát triển các làng nghề truyền thống, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa của địa phương.
- Vai trò của du lịch đối với môi trường
Thông qua hành trình du lịch, việc tiếp xúc, hòa nhập vào thiên nhiên, được cảm nhận một cách trực quan sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát của các cảnh quan tự nhiên; giúp cho họ hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, thấy được giá trị to lớn của thiên nhiên đối với cuộc sống con người. Từ đó, nâng cao nhận thức, ư thức của bản thân ḿnh trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên đồng thời có trách nhiệm tuyên truyền, vận động mọi người bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, du lịch góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục bảo vệ môi trường. Nguồn thu từ du lịch cũng là nguồn vốn quan trọng để cải thiện và bảo vệ môi trường.
1.2. Quản lý nhà nước về du lịch
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 1
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 2
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 3
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 5
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 6
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 7
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững xã hội. Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực nhà nước tới các hoạt động du lịch, như hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch; hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch; huy động mọi nguồn lực tài chính để đầu tư cho các chương trình, kế hoạch phát triển du lịch; hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình du lịch; tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện. Qua đó, đưa du lịch phát triển đúng định hướng và đạt được các mục tiêu đề ra.
Từ khái niệm Quản lý nhà nước về du lịch nêu trên, ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản sau:
- Chủ thể quản lý nhà nước về du lịch là các cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương.
- Đối tượng quản lý là các quan hệ xã hội vận động và phát triển trong lĩnh vực du lịch.
- Công cụ để thực hiện quản lý là hệ thống pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch,...
- Mục tiêu quản lý nhà nước về du lịch là khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh để phát triển du lịch, làm cho du lịch ngày càng phát
triển và phát triển đúng hướng, đúng các quy định của pháp luật.
- Chính sách du lịch: là một chuỗi các quyết định hành động của chính quyền từ Trung ương đến địa phương nhằm giải quyết một vấn đề chung đang được đặt ra hoạt động quản lý, điều hành du lịch theo mục tiêu xác định. Một chính sách linh hoạt, phù hợp sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy ngành du lịch phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, trong mỗi hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội khác nhau mới khẳng định được điều đó.
Chính sách phát triển du lịch được quy định tại Điều 6 Luật du lịch như
sau:
Một là, Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực, tăng
đầu tư phát triển du lịch để bảo đảm du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Hai là, Nhà nước có chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực sau:
- Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch;
- Tuyên truyền, quảng bá du lịch;
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch;
- Nghiên cứu, đầu tư, xây dựng sản phẩm du lịch mới;
- Hiện đại hoá hoạt động du lịch;
- Xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, nhập khẩu phương tiện cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao và khu du lịch quốc gia;
- Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm sử dụng lao động, hàng hoá và dịch vụ tại chỗ, góp phần nâng cao dân trí, xoá đói, giảm nghèo.
Ba là, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác quy hoạch; hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch; hỗ trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Bốn là, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam đi du lịch trong nước và nước ngoài; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch.
Năm là, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia hoạt động du lịch, mở rộng giao lưu hợp tác giữa du lịch Việt Nam với du lịch khu vực và quốc tế.
Sáu là, nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện hình thành quỹ hỗ trợ phát triển du lịch từ nguồn đóng góp của các chủ thể hưởng lợi từ hoạt động du lịch, nguồn đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về du lịch
Theo Luật Du lịch; chủ thể quản lý nhà nước về du lịch được chia thành 2 cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương; Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch trong phạm vi cả nước.
- Ở Trung ương: Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông -Vận tải, Bộ Công an, …) thực hiện quản lý nhà nước về du lịch. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi quyền hạn của mình và theo sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương thực hiện quản lý
nhà nước.
- Ở địa phương: Đối với cấp tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nay là Sở Du lịch) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch. Đối với cấp thành phố, UBND thành phố giao cho Phòng Văn hóa – thông tin thực hiện chức năng này, tại các xã, phường, các công chức Văn hóa – xã hội phụ trách quản lý du lịch địa phương. Phòng Văn hóa – thông tin tham mưu cho UBND thành phố cụ thể hóa quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương và có biện pháp bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường tại khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Phòng Văn hóa – thông tin chủ trì, phối hợp với các phòng, ban, ngành liên quan (Phòng Tài chính – kế hoạch, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Y tế, Công an….) thực hiện quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương.
1.2.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch
Du lịch là một ngành có tính liên ngành, liên vùng; vì vậy đặc điểm quản lý nhà nước về du lịch là phải có sự phối, kết hợp giữa các ngành với nhau, sự phối hợp giữa ngành và lãnh thổ.
Bên cạnh đó, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, hoạt động du lịch với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng. Trong bối cảnh đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ với điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế.
Mặt khác, du lịch phát triển kéo theo sự giao lưu về văn hóa, về phong tục tập quán, tôn giáo, lối sống... quản lý nhà nước về du lịch phải linh hoạt, để vừa “gạn đục, khơi trong”, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại nhưng cũng vừa giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Cuối cùng, du lịch là ngành có ảnh hưởng đến môi trường rất lớn, kể cả
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; nhà nước phải có chính sách dài hạn, tầm nhìn chiến lược cho tương lai để vừa khai thác tốt các tiềm năng, nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển du lịch đồng thời vừa giữ gìn, bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường tự nhiên, đảm bảo về môi trường xã hội.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về du lịch
1.2.4.1 Yếu tố khách quan
- Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một địa phương (địa hình, khí hậu, nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên…) có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành các trung tâm, điểm đến du lịch và tạo tính bền vững của các sản phẩm du lịch. Thực tiễn cho thấy, một vùng, một địa phương nếu có nhiều cảnh đẹp tự nhiên, có khí hậu ấm áp, có động vật, thực vật phong phú, nằm ở vị trí có giao thông thuân lợi thì ở đó chắc chắn sẽ có sức hấp dẫn lớn thu hút khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu…Đồng thời có khả năng đáp ứng các yêu cầu của nhiều loại du lịch với những đối tượng khác nhau góp phần thúc đẩy du lịch phát triển mạnh.
- Yếu tố về kinh tế - xã hội, văn hóa – tâm lý
+ Kinh tế - xã hội: Tình hình phát triển kinh tế của địa phương là yếu tố quan trọng tác động tới sự phát triển của du lịch và quản lý du lịch. Nền kinh tế chung phát triển, tình hình chính trị hòa bình, ổn định là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Khi các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của một điểm du lịch biến động thì sẽ làm cho làm vai trò và sự đóng góp của ngành du lịch trong GDP bị giảm sút.
+ Văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo: Phong tục, tập quán là một yếu tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc và là một trong các yếu tố tạo nên tính dị biệt trong các sản phẩm du lịch đặc biệt là trong các sản phẩm du
lịch lễ hội và du lịch văn hoá (vì phong tục tập quán cũng là nhân tố chủ yếu tạo nên các sản phẩm du lịch văn hoá, du lịch lễ hội).
Tôn giáo, tín ngưỡng là một phần quan trọng trong đời sống tâm lí, tinh thần của con người, vì vậy nó có rất nhiều ảnh hưởng đến nhu cầu và hành vi của họ. Trong giai đoạn hiện nay loại hình du lịch tín ngưỡng đang phát triển nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Nhà nước phải nghiên cứu để xây dựng các quy định, chính sách để vừa phát triển du lịch nhưng đồng thời cũng vừa bảo tồn và phát huy được các phong tục, tập quán của địa phương; trùng tu, tôn tạo và bảo vệ các công trình kiến trúc tôn giáo đưa vào phục vụ du lịch, tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn thu hút du khách thập phương.
+ Yếu tố thuộc về khách du lịch: Bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ nào được tạo ra cũng đều nhằm cung cấp cho nhu cầu của thị trường (du khách). Vì vậy, sự biến động nhu cầu của du khách sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển du lịch. Sự thay đổi về mức thu nhập, lối sống, tư duy, chi phí và chất lượng của dịch vụ du lịch… tác động đến các hoạt động và sự phát triển của ngành du lịch.
+ Cơ sở hạ tầng: Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch có vai trò quan trọng đối với phát triển du lịch. Cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ du lịch gồm: tất cả các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết để đón tiếp và phục vụ khách du lịch về lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các dịch vụ bổ sung khác. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch
+ Hội nhập và toàn cầu hóa: Hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa là một xu thế khách quan đối với các quốc gia; ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực du
lịch nói riêng. Mỗi nước phải có chiến lược tổng thể phát triển du lịch để vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của các nước vừa bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, “hòa nhập” nhưng không “hòa tan”.
1.2.4.2 Yếu tố chủ quan
- Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước
Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý nhà nước về du lịch của từng địa phương nói riêng. Trên cơ sở quan điểm của Đảng, nhà nước hoạch định, ban hành chính sách cho phù hợp. Những chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương có tác dụng thúc đẩy ngành du lịch phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, những chính sách chưa hợp lý, không phù hợp với thực tiễn, khó tiếp cận và thiếu đồng bộ sẽ tạo phản tác dụng, cản trở sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Tổ chức bộ máy; cơ chế hoạt động; nguồn nhân lực quản lý; nguồn lực cho quản lý
Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch bản thân nó cũng là một hoạt động cung cấp sản phẩm là các quyết định quản lý nhà nước. Quá trình này cũng đòi hỏi phải có các nguồn lực để thực hiện. Thực tiễn cho thấy Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du lịch có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển du lịch. Bởi đây chính là đội ngũ trực tiếp tham mưu xây dựng, hoạch định, ban hành các chính sách phát triển du lịch. Một đội ngũ cán bộ quản lý có chuyên môn nghiệp vụ về du lịch, am hiểu luật pháp quốc tế về du lịch, sử dụng thành thạo các thiết bị thông tin, ... cộng với tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch thống nhất, đồng bộ và đảm bảo điều kiện các nguồn lực hoạt động thì sẽ thúc đẩy du lịch phát triển.