Một Số Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Nhà Nước Trong Việc Phát


những giai đoạn phát triển tiếp theo. Bằng việc sử dụng hữu hiệu và không ngừng đổi mới công cụ kế hoạch hóa, nhà nước đã bảo vệ nền kinh tế của đất nước trong sự thâm nhập của nước ngoài; bảo trợ, giúp đỡ các tổ chức kinh tế, các ngành, các thành phần kinh tế tham gia hòa nhập vào kinh tế thế giới; bảo vệ lợi ích quốc gia trong cạnh tranh; phối hợp một cách đồng bộ các yếu tố kinh tế, chính trị, đối ngoại trong quá trình phát huy nội lực, thu hút ngoại lực. Mặc dù vậy, công tác kế hoạch hóa vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Quá trình đổi mới đã làm giảm bớt sự bao cấp cho nền kinh tế, đặc biệt là bao cấp qua ngân sách, song lại phát sinh một số hình thức bao cấp khác như khoanh nợ, xóa nợ, cấp đất… Những nội dung này thường được thể hiện trong nội dung kế hoạch hoặc hoạt động điều hành kế hoạch. Mặt khác, nội dung kế hoạch vẫn chưa chú ý đúng mức đến những cân đối lớn của nền kinh tế, một số bộ, ngành, địa phương vẫn coi trọng những dự án, những chương trình cụ thể. Các địa phương, các ngành cố gắng xin thật nhiều dự án, chương trình những phần đóng góp cho ngân sách không tương xứng với số vốn được bổ sung, thậm chí có những nơi, có những đơn vị gây thất thoát nghiêm trọng. Tình trạng “chia đều nguồn lực” còn tồn tại làm cho cho kế hoạch có những lệch lạc nhất định… Cho đến nay, nhà nước vẫn còn thiếu một chiến lược,

một kế hoạch tổng thể cho việc phát huy nội lực và ngoại lực.

Thứ hai, nhà nước sử dụng công cụ pháp luật để định hướng việc phát

huy nội lực và ngoại lực

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung (hệ thống quy phạm) do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Nó là công cụ hiệu quả của nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội. Do đó, việc sử dụng công cụ pháp luật để quản lý, định hướng việc phát huy nội lực và ngoại lực có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường là yếu tố trực tiếp điều tiết các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà sản xuất, người tiêu dùng cũng như toàn bộ nền kinh tế và suy đến cùng là mọi hoạt động hợp tác, đầu tư, phát


triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nhà nước đã bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách lại tạo điều kiện cho sự phát triển và quản lý, điều tiết hoạt động của các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường tài chính, tiền tệ…), thông qua đó giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết và định hướng hoạt động của doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế theo mục tiêu, chiến lược phát triển của đất nước, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường. Chính bằng công cụ pháp luật, một mặt, nhà nước cho phép phát huy nội lực và ngoại lực trên những lĩnh vực nào, ở mức độ nào, lĩnh vực nào là trọng tâm; mặt khác Nhà nước có thể phân bổ, điều tiết các nguồn lực một cách hợp lý; bảo vệ, duy trì những nguồn lực đang được phát huy, đồng thời tạo môi trường để kích thích, phát huy những tiềm năng trong nước, những cơ hội hợp tác, đầu tư mới.

Trong những năm qua, nhà nước đã luật hóa và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiều nội dung mới để phát huy nội lực và ngoại lực đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện mới. Nhiều luật, bộ luật được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Lao động, Luật Hải quan, Luật Thuế xuất nhập khẩu; Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu… Nhiều văn bản luật ngay khi vừa ban hành đã có tác động tích cực, tạo môi trường thông thoáng để khai thác có hiệu quả các nguồn lực, định hướng, kích thích việc phát huy nội lực và ngoại lực. Luật Doanh nghiệp ra đời, được bổ sung, hoàn thiện trên các quan điểm cơ bản: xóa bỏ sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế; mở rộng quyền tự do dân chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ sẽ phân cấp triệt để cho Ủy ban nhân dân các địa phương xem xét, cấp phép và lý các dự án đầu tư trên địa bàn, không hạn chế về quy mô, hình thức đầu tư. Luật Doanh nghiệp đã tạo cơ chế thông thoáng cho sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp Việt Nam. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến 1/1/2012, cả nước có 541.000 doanh nghiệp tồn tại về mặt pháp lý, trong đó có 375.000 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, chiếm 83,7% doanh nghiệp hiện có của nền kinh tế [109]. Đó là một tỷ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.


lệ hợp lý, thể hiện chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý và điều kiện kinh doanh khá thuận lợi của nền kinh tế nước ta. Như vậy, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các luật cho phù hợp với bối cảnh mới và các quy định, thông lệ quốc tế đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước mở rộng các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, tìm kiếm thị trường, đối tác….

Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 13

Tuy nhiên hiện nay, ở nước ta còn tình trạng chồng chéo giữa các luật, văn bản luật, văn bản dưới luật gây ra sự phức tạp trong cách hiểu, cách vận dụng. Pháp luật chậm đổi mới, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn đăt nước và luật pháp, thông lệ quốc tế. Nhiều văn bản pháp luật vừa ra đời đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí có những nội dung phải xóa bỏ. Việc vận dụng và thực thi pháp luật còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập do phải chờ nghị định, thông tư, hướng dẫn; hậu quả là luật thiếu hiệu lực, công tác triển khai thực hiện chậm. Mặt khác, cũng còn khoảng cách khá xa giữa thực tế và yêu cầu về tính chuyên nghiệp, minh bạch và khả năng giải trình của bộ máy nhà nước, trong khi hệ thống động lực (tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm, lương, thưởng) cho công chức còn hạn chế…

Thứ ba, nhà nước định hướng việc phát huy nội lực và ngoại lực thông

qua các chính sách vĩ mô, đòn bẩy kinh tế

Thuế là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô hữu hiệu của nhà nước. Thông qua chính sách thuế, nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển hay đầu tư của một ngành hoặc một lĩnh vực nào đó. Thuế cũng giúp nhà nước bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, điều tiết cung - cầu, điều tiết giá cả thị trường, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, xu thế tự do hóa, quốc tế hóa diễn ra mạnh mẽ, chính sách thuế đang bị thu hẹp dần. Các nước, các khu vực, các thể chế kinh tế toàn cầu ràng buộc lẫn nhau về giảm thuế, xóa bỏ hàng rào thuế quan… Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có những đổi mới về chính sách thuế cho phù hợp với những yêu cầu của quá trình hội nhập.

Trong những năm qua, nhà nước ta đã có những nỗ lực trong việc rà soát, điều chính các sắc thuế minh bạch hơn, ổn định hơn, đơn giản và thống nhất các mức thuế suất. Các sắc thuế quan trọng như: thuế giá trị gia tăng,


thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp được điều chỉnh, bổ sung; làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và tính tự giác của người nộp thuế; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, chống thất thu và gian lận thuế. Những biện pháp tích cực đó giúp tạo tính ổn định cao cho các nhà đầu tư trong việc tính toán các kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình.

Tuy nhiên, hệ thống chính sách và quy định pháp luật về thuế vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu; có quá nhiều mức thuế suất, chính sách miến giảm thuế áp dụng trên diện quá rộng… gây khó khăn cho việc thực thi, dễ nảy sinh tiêu cực, gây bất bình đẳng trong môi trường đầu tư, cản trở việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, hạn chế việc phát huy nội lực và ngoại lực.

Trên lĩnh vực tài chính, nhà nước đã đổi mới quan niệm về vai trò, chức năng tài chính cho phù hợp với thực tiễn kinh tế đất nước; hình thành và phát triển hệ thống tài chính theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, đa dạng hóa các kênh tài chính; xác định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh trong lĩnh vực tài chính. Nhờ vậy, việc phân bổ các nguồn lực tài chính ở nước ta đã được thực hiện theo hướng tối ưu hóa, góp phần sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Trên lĩnh vực chính sách tiền tệ, tín dụng, nhà nước đã sử dụng một loạt biện pháp nhằm đảm bảo huyết mạch lưu thông được thông suốt, góp phần tạo sự ổn định cho kinh tế phát triển. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, vừa kiểm soát được lạm phát, vừa hỗ trợ cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng được cung cấp dồi dào đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp; tỷ trọng cho vay khu vực ngoài quốc doanh ngày càng tăng, tỷ trọng tín dụng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm xuống. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán nhìn chung phù hợp với biến động của giá cả và tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia phục vụ trung và dài hạn. Như vậy, chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ đã giúp ổn định, lành mạnh hóa các loại thị trường tài chính, tăng quy mô nguồn tài chính hợp lý, hiệu quả, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh té bền vững… Với


việc sử dụng chính sách này, nhà nước phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; đồng thời tạo ra môi trường ổn định thuận lợi dể duy trì, kích thích việc phát huy nội lực và ngoại lực, đặc biệt là trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Mặc dù vậy, chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ cũng còn những hạn chế, gây ra những trở ngại nhất định: môi trường hoạt động của chính sách tài chính, tiền tệ chưa ổn định; thị trường tài chính, tiền tệ chứng khoán hình thành chưa đầy đủ và chưa được kiểm soát chặt chẽ; các công cụ tài chính chưa hoàn thiện, chưa bao quát mọi đối tượng, chi ngân sách còn dàn trải…

Đối với chính sách thương mại, nhà nước từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý thương mại theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương song không độc quyền kinh doanh ngoại thương như trước đây. Các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh thương mại theo pháp luật. Trong những năm qua, nhà nước điều tiết xuất - nhập khẩu bằng thuế xuất - nhập khẩu, các chính sách phi thuế quan và bằng nhiều biện pháp hành chính khác. Các văn bản quản lý xuất, nhập khẩu, đặc biệt là Luật Thương mại được ban hành đã mở rộng đối tượng áp dụng thể chế và chính sách thương mại phù hợp hơn với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ vậy, môi trường đầu tư trở nên thông thoáng, tạo những điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư, đồng thời cũng giúp quản lý, điều tiết hoạt động kinh tế quốc tế, góp phần kích thích sản xuất trong nước, phát huy nội lực quốc gia, tăng cường việc thu hút ngoại lực. Tuy nhiên, chính sách thương mại cũng còn những điểm hạn chế như: chưa đủ mạnh để tạo ra một thị trường cạnh tranh thực sự bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế so sánh giữa các nghành, vùng, các thành phần kinh tế. Nhà nước chưa có chiến lược, chính sách phát triển thương mại bền vững.

Ngoài ra, nhà nước chú trọng đổi mới, hoàn thiện chính sách đầu tư. Trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, tích cực hội nhập quốc tế, chính sách đầu tư từng bước được đổi mới, hoàn thiện. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua tháng 12/1987, sau đó được bổ sung nhiều lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 đã góp phần tạo hành


lang pháp lý thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế như: Xóa bỏ các phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, quyền tự quyết trong quản lý của nhà đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đăng ký đầu tư với cơ chế một cửa cho phép nhà đầu tư có thể đăng ký kinh doanh tại một nơi và triển khai các dự án tại các địa phương khác; quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài được mở rộng. Với việc sử dụng chính sách đầu tư, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư, tác động, kiểm soát và kích thích hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh tế, hỗ trợ các chi phí đầu vào theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, tạo điều kiện hỗ trợ và phát huy nội lực, kích thích sự đầu tư của các nguồn ngoại lực, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Mặc dù vậy, chính sách đầu tư của nhà nước còn không ít những hạn chế, cản trở việc thu hút đầu tư nước ngoài như: sự yếu kém về năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và hàng hóa. Môi trường đầu tư còn nhiều bất cập, chất lượng nguồn nhân lực còn yếu, hạ tầng xã hội còn chưa đủ mạnh để đối ứng với ngoại lực.

Như vậy, nhà nước bằng việc sử dụng công cụ pháp luật, kế hoạch hóa, các chính sách điều tiết vĩ mô đã quản lý ngày càng tốt hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời định hướng việc phát huy nội lực và ngoại lực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; kích thích việc kết hợp nội lực và ngoại lực hài hòa, hiệu quả, vững chắc và tiếp tục phát triển trong những giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, những hạn chế của nhà nước trong việc sử dụng các công cụ này cũng làm hạn chế tính khoa học, hợp lý trong việc khai thác, phân bổ nguồn lực; kiểm soát yếu kém gây ra tình trạng lãng phí trong chi tiêu ngân sách và tiêu dùng xã hội; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý so với thực tiễn yêu cầu của từng vùng cũng như cân đối lớn quốc gia tầm nhìn ngắn hạn, trung và dài hạn. Mặt khác, việc thiếu một kế hoạch tổng thể, dài hạn cũng làm giảm vai trò của nhà nước trong việc định hướng, kích thích việc phát huy nội lực và ngoại lực.


3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT

HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC THỜI KỲ HỘI NHẬP HIỆN NAY

Từ thực trạng nêu trên, với những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém chưa được khắc phục, vai trò của Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện hội nhập đứng trước những vấn đề đặt ra hết sức cấp bách, đó chính là những mâu thuẫn nảy sinh từ quá trình nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực, hội nhập quốc tế, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

3.2.1. Mâu thuẫn giữa vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa nảy sinh từ quá trình phát huy nội lực và ngoại lực trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế

Chủ trương về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng được hình thành từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 với quan điểm xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước. Chủ trương đó ngày càng được Đảng ta bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta nêu quan điểm về phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đó, Đại hội IX của Đảng (2001) lần đầu tiên xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:

Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [28, tr.87].

Đó là: “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [28, tr.88].

Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, có sự điều tiết của nhà nước, với vai trò nền tảng của nền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuân theo định hướng XHCN.


Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng làm cơ sở vật chất kỹ thuật - của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” [31, tr.70], xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN.

Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đang phát huy cao độ nội lực, tranh thủ mọi nguồn ngoại lực để phát triển đất nước, vững bước tiến lên trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, chính quá trình đó lại tiềm ẩn những nguy cơ lớn về chệch hướng xã hội chủ nghĩa với sự xuất hiện và gia tăng ảnh hưởng của xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa xuất phát từ những yếu tố của nội lực nền kinh tế - xã hội đất nước và những yếu tố của thời đại. Điều đó đang đặt ra những thách thức to lớn đối với Nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.

Thứ nhất, nước ta đang trong quá trình xây dựng nền sản xuất lớn, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nội lực còn nhiều hạn chế, yếu kém, xuất phát điểm thấp, trong khi đó việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo ra những cơ sở khách quan cho việc hình thành tự phát xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa.

Đến nay, về cơ bản Việt Nam vẫn cơ bản là một nước nông nghiệp lạc hậu, vừa bước ra khỏi danh sách những quốc gia nghèo trên thế giới, chúng ta đang nỗ lực phát huy mọi nguồn lực trong nước để xây dựng một nền sản xuất lớn, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Song, như Lênin từng khẳng định nền sản xuất lớn “hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”, do đó, việc phát huy huy mọi tiềm năng, thế mạnh về nội lực để xây dựng nền kinh tế lớn một mặt đem lại những thành tựu về kinh tế - xã hội đất nước, mặt khác lại là điều kiện hình thành xu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/11/2022