Nguyên lý thống kê kinh tế - 2

hiệntượnghaycácquátrìnhkinhtế–xãhội.Nhưngvìkhôngchỉdừnglạiởcáccon sốmàtaphảiđọc đượcýnghĩacủa nóvàđưara kếtluận vềcáchiện tượng nên ngườitaxếpthốngkêhọcvàokhoahọcxãhội.Thốngkê họclàmột mônkhoahọcxã hộinghiêncứukhôngchỉmột phươngpháp màlàmộthệthốngcácphươngpháp: thuthập– xửlý–phântích,trong phân tích thìcóphân tíchvàdựđoán.Trên cơsởphân tíchconsốthốngkê,ngườitarútra đượcbảnchấtvàtínhquyluậtcủahiệntượng.Chínhvìvậy,thốngkêcònlàmộtmônkhoahọcđị nh lượng.

1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của thống kê học

Thống kê học là một môn khoa học xã hội. Tuy nhiên, khác với các môn khoa học xã hội khác, thống kê học không trực tiếp nghiên cứu mặt chất của hiện tượng mà nó chỉ phản ánh bản chất, tính quy luật của hiện tượng thông qua các con số, các biểu hiện về lượng của hiện tượng. Điều đó có nghĩa là thống kê học sử dụng các con số về quy mô, kết cấu, quan hệ tỷ lệ, quan hệ so sánh, trình độ phát triển, trình độ phổ biến… của hiện tượng để phản ánh, biểu thị bản chất, tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, các con số thống kê không phải chung chung, trừu tượng mà bao giờ cũng chứa đựng nội dung kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, giúp ta nhận thức được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu.

Theo quan điểm của triết học, chất và lượng là hai mặt không thể tách rời của mọi sự vật, hiện tượng, giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, sự thay đổi về lượng quyết định sự biến đổi về chất. Quy luật lượng – chất của triết học đã chỉ rò: mỗi lượng cụ thể đều gắn với một chất nhất định, khi lượng thay đổi và tích lũy đến một chừng mực nhất định thì chất thay đổi theo. Vì vậy, nghiên cứu mặt lượng của hiện tượng sẽ giúp cho việc nhận thức bản chất của hiện tượng. Có thể đánh giá thành tích sản xuất của một doanh nghiệp qua các con số thống kê về tổng số sản phẩm làm ra, giá trị sản xuất đạt được, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về sản xuất, giá thành đơn vị sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của người công nhân,…

Tuy nhiên, để có thể phản ánh được bản chất và quy luật phát triển của hiện tượng, các con số thống kê phải được tập hợp, thu thập trên một số lớn các hiện tượng cá biệt. Thống kê học coi tổng thể các hiện tượng cá biệt như một thể hoàn chỉnh và lấy đó làm đối tượng nghiên cứu. Mặt lượng của các hiện tượng cá biệt thường chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó có cả những yếu tố tất nhiên và ngẫu nhiên. Mức độ và chiều hướng tác động của từng yếu tố này trên mỗi hiện tượng cá biệt rất khác nhau. Nếu chỉ thu thập trên một số ít hiện tượng thì khó có thể rút ra bản chất chung của hiện tượng mà nhiều khi người ta chỉ tìm thấy những yếu tố ngẫu nhiên, không

bản chất. Ngược lại, khi nghiên cứu trên một số lớn các hiện tượng cá biệt, các yếu tố ngẫu nhiên sẽ bù trừ, triệt tiêu nhau và khi đó bản chất, quy luật phát triển của hiện tượng mới được bộc lộ rò.

Quy luật số lớn là một quy luật của lý thuyết xác suất, ý nghĩa của quy luật này là:tổng hợp sự quan sát số lớn tới mức đầy đủ các sự kiện cá biệt ngẫu nhiên thì tínhtất nhiên của hiện tượng sẽ bộc lộ rò rệt, qua đó sẽ nói lên được bản chất của hiện tượng.

Đốitượngnghiêncứuchủyếucủathốngkêhọclàcáchiệntượngkinhtế– xãhộisốlớn,trongđóbaogồmnhiềuđơnvịhoặchiệntượngcábiệttạothành. Thông quanghiên cứumộtsốđủlớncácđơnvịcábiệtnày, chúng tasẽrútrađượckếtluậnvềbảnchất,tínhquy luậtcủasựvật,hiệntượng.Kếtluậnnày cóthểsẽ khôngđúngvớitừnghiệntượngcábiệt,nhưngnó phản ánhđúng vớihiệntượngsố lớn.Vídụ:Theokếtquả củaTổng điềutradânsố vànhàở lúc0giờ ngày1/4/2009,trong tổngthểdânsốnướctahiệnnay,tỷlệnam/nữlà98,1/100. Tỷlệnàycóthểkhông đúngđốivớitừnggiađìnhnhưngđúngvớisốđôngcácgiađìnhởViệtNamhiệnnay. Nhưng consố nàolàđủ lớnthìcòntùyvàođặcđiểmcủahiệntượng.

Thống kê vận dụng quy luật số lớn để lượng hóa bản chất và quy luật củahiện tượng kinh tế xã hội thông qua tính quy luật thống kê.Tính quy luật thống kê là một trong những hình thức biểu hiện mối liên hệ chung của các hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội. Khi nghiên cứu tài liệuthống kê về một số khá lớn đơn vị cá biệt, tính quy luật thống kê mới biểu hiện rò.Như trong thống kê dân số, qua nghiên cứu một số khá lớn gia đình ở nhiều địaphương và nhiều nước khác nhau, người ta thấy tỉ lệ sinh con gái không vượt quá49%.

Về tính chất, tính quy luật thống kê cũng như các quy luật nói chung phảnảnh những mối liên hệ nhân quả tất nhiên. Nhưng các mối liên hệ này thường không có tính chất chung rộng rãi mà phải phụ thuộc vào điều kiện phát triển cụ thể của hiện tượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

Tính quy luật thống kê không phải là kết quả tác động của một nguyên nhân,mà là của toàn bộ các nguyên nhân kết hợp với nhau. Đó là biểu hiện tổng hợp củanhiều mối liên hệ nhân quả, là đặc trưng của các hiện tượng số lớn được tổng hợplại qua các tổng thể thống kê. Nhìn chung càng mở rộng phạm vi thời gian cùng vớiviệc tăng số lượng đơn vị của tổng thể thống kê, tính quy luật thống kê càng biểuhiện rò.

Thốngkêchỉnghiêncứucáchiệntượngsốlớn?Câutrảlờilàkhông.Thốngkê chủyếunghiên cứuhiệntượngsốlớnvàcókếthợpnghiên cứucảđơnvị,hiện tượngcábiệt,thườnglànhữnghiệntượngcótínhchấtđiểnhìnhtiêntiếnhoặc điểnhìnhlạchậu.Vídụ:TrongmộtnhàmáyA,tổsảnxuấtBliêntụccónăngsuấtlaođộngcao nhấtnhàmáytrongnhiềunămliền;khiđó,nghiêncứuriêngtổsảnxuấtBđểrút rakếtluận,tạisaotổnày cónăngsuấtlaođộngcao, dotuổinghề,dobậcthợ,do trìnhđộkhéoléo,tăngca...từđórútrabàihọckinhnghiệm trongquảnlýnhằm nângcaonăng

Nguyên lý thống kê kinh tế - 2

suất lao động toànnhàmáy.

Đối tượng nghiên cứu của thống kê học bao giờ cũng tồn tại trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Chúngtađềubiết,mặtlượngcủacáchiệntượngkinhtế– xãhộithườngxuyên biếnđộngquathờigianvàquakhônggian. Khiđiềukiệnthờigianvàkhônggian thayđổi,bảnchấtcủasựvật,hiệntượngcóthểcũngthay đổitheo. Vìvậy,khi nghiêncứuphảixácđịnh rò hiệntượngđó xảy ratạithờiđiểmnàovàở đâu. Vídụ:Giávàngtạicácthờigian,khônggiankhácnhaulàkhácnhau.Thậmchí tạicùngthờigian nhưngởcácđịaphươngkhácnhau,cáccửahàngkhácnhau,giá vàngcũngkhácnhau.

Từ các phân tích trên, có thể rút ra kết luận: Đối tượng nghiên cứu của thống kê học là mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng số lớn, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.

1.1.4. Vai trò của thống kê học

Kể từ khi ra đời, thống kê ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Thông qua việc phát hiện, phản ánh những quy luật về lượng của hiện tượng, các con số thống kê giúp cho việc kiểm tra, giám sát, đánh giá các chương trình, kế hoạch và định hướng sự phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.

Ngàynay, thốngkêlen lỏitrongmọihoạtđộng,mọi lĩnhvựccủađờisốngvàthông tinthốngkêtrởthành mộttrongnhữngnguồnlựcvôgiáđểđánhgiábản chấtvàxu hướng pháttriểncủahiệntượng.

Thôngtinthốngkêcũnggợimởchongườisửdụng cácbiệnphápnhằmthúcđẩy quátrìnhsản xuấttốthơn haydựkiếnkhả năng đạtđược trongthờigiantới.Chínhvìvậy,Lê- nin đãchorằng:Thốngkêlàmộtcôngcụmạnh mẽnhấtđể nhận thứcxãhội.

Tùytheomụcđíchkhácnhaumàthốngkêhọcphụcvụtheonhữngkhíacạnh khácnhau. Cácconsốthốngkêcóthểđượcsửdụngnhiều lầnvớinhiềumụctiêukhác nhau. Chính vìtínhchấtkhách quan,dễgâyảnhhưởngvàlanrộngcủanómàthốngkêlà mộttrongnhữngcôngcụquantrọng,cóvaitròcungcấpcácthôngtinphụcvụquản lýở cảtầmvi môvàvĩ mô.

Ngàynay,cùng vớisựpháttriểncủaxãhộiloàingười,sựtiếnbộcủakhoa học–kỹ thuật,khoahọcthốngkêcànghoànthiệnhơnvềlýluậnvàphươngpháp, thông tin. Thốngkêđadạng,phongphúđượcsửdụngrộngrãivàngàycàngđáp ứngđượcyêu cầucủangườisử dụng.

1.2. Một số khái niệm thường dùng trong thống kê

1.2.1. Tổng thể thống kê và đơn vị của tổng thể

1.2.1.1. Khái niệm tổng thể thống kê và đơn vị của tổng thể

Tổng thể thống kê là tập hợp các đơn vị (hay phần tử) thuộc hiện tượng nghiên cứu, cần quan sát, thu thập và phân tích về mặt lượng của chúng theo một hay một số

tiêu thức nào đó. Các đơn vị (hay phần tử) cấu thành tổng thể thống kê gọi là đơn vị tổng thể.

Đơn vị tổng thể là xuất phát điểm của việc nghiên cứu, bởi vì mặt lượng của đơn vị tổng thể là các dữ liệu mà người nghiên cứu cần thu thập. Như vậy, muốn xác định được một tổng thể thống kê, ta cần phải xác định được tất cả các đơn vị cấu thành nó. Hay thực chất của việc xác định tổng thể thống kê là việc xác định các đơn vị tổng thể.

Tổng thể thống kê là một khái niệm quan trọng của thống kê học. Xác định tổng thể nhằm đưa ra giới hạn về phạm vi nghiên cứu cho người nghiên cứu. Qua đó cho biết chúng ta phải thu thập tài liệu từ những đơn vị nào và ở đâu. Chẳng hạn khi muốn nghiên cứu tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội thì tổng thể thống kê sẽ là tổng thể các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị tổng thể.Việc xác định đúng đắn tổng thể thống kê có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê. Nếu xác định không đúng tổng thể thống kê (tức là bao gồm cả những đơn vị thực ra không nằm trong tổng thể đó) các kết luận rút ra sẽ sai lầm, mục đích nghiên cứu không đạt được.

1.2.1.2. Phân loại tổng thể thống kê

- Căn cứ vào sự nhận biết các đơn vị trong tổng thể, có thể chia thành hai loại: tổng thể bộc lộ và tổng thể tiềm ẩn.

Tổng thể bộc lộ là tổng thể gồm các đơn vị mà ta có thể trực tiếp quan sát hoặc nhận biết được (Ví dụ: tổng thể nhân khẩu, tổng thể các trường đại học Việt Nam...). Tổng thể tiềm ẩn là tổng thể gồm các đơn vị mà ta không trực tiếp quan sát hoặc nhận biết được. Muốn xác định ta phải thông qua một hay một số phươngpháp trung gian nào đó (Ví dụ: tổng thể những người ưa thích nghệ thuật cải lương, tổng thể những người mê tín dị đoan...).

Việc phân chia này có liên quan trực tiếp đến việc xác định tổng thể. Thông thường, việc xác định các đơn vị của một tổng thể bộc lộ không gặp nhiều khó khăn do chúng được định nghĩa rò ràng, có ranh giới xác định với các đơn vị khác, ... Trong khi đó, việc tìm được đầy đủ, chính xác các đơn vị của một tổng thể tiềm ẩn lại gặp nhiều khó khăn hơn do không có sự phân biệt rạch ròi, chuẩn xác giữa chúng với các đơn vị không thuộc tổng thể. Vì vậy, việc nhầm lẫn, bỏ xót các đơn vị trong tổng thể dễ xảy ra.

- Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, có thể chia làm hai loại tổng thể: tổng thể đồng chất và tổng thể không đồng chất.

Tổng thể đồng chất bao gồm những đơn vị có cùng chung những đặc điểm chủ yếu có liên quan đến mục đích nghiên cứu. Tổng thể không đồng chất bao gồm những đơn vị khác nhau về loại hình, khác nhau về những đặc điểm chủ yếu có liên quan đến mục đích nghiên cứu.

Sự phân chia này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định tính đại diện của các con số thống kê tính được. Các con số này chỉ có ý nghĩa, đảm bảo được tính đại diện khi được tính ra từ một tổng thể đồng chất. Nếu chúng được tính ra từ một tổng thể không đồng chất thì ý nghĩa, tính đại diện của chúng cho tổng thể giảm đi rất nhiều, thậm chí không sử dụng được. Ví dụ, khi nghiên cứu về thu nhập, ta thường sử dụng chỉ tiêu thống kê là thu nhập trung bình. Tuy nhiên, thu nhập trung bình chỉ có ý nghĩa và cũng chỉ đảm bảo tính đại diện cao khi được tính ra từ một tổng thể chỉ bao gồm những người có cùng chung những điều kiện làm việc, tính chất công việc...

- Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu, người ta còn phân biệt tổng thể chung và tổng thể bộ phận. Tổng thể chung bao gồm tất cả các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu; tổng thể bộ phận chỉ chứa đựng một phần của tổng thể chung.

Tổng thể thống kê có thể là hữu hạn, cũng có thể là vô hạn (không thể hoặc khó xác định được số đơn vị như tổng thể trẻ sơ sinh, tổng thể sản phẩm do một loạimáy sản xuất ra...). Cho nên khi xác định tổng thể thống kê không những phải giớihạn về thực thể (tổng thể là tổng thể gì), mà còn phải giới hạn về thời gian và khônggian (tổng thể tồn tại ở thời gian nào, không gian nào).

Trong thực tế nghiên cứu thống kê, nhiều khi ranh giới của tổng thể còn có chỗ mập mờ, khó xác định chính xác, người ta phải quy ước một số loại đơn vị nào đó được đưa vào tổng thể, một số khác không được tính là đơn vị tổng thể.

1.2.2. Tiêu thức thống kê

1.2.2.1. Khái niệm tiêu thức thống kê

Tiêuthứcthốngkêlàđặcđiểmcủađơnvịtổng thểđượcchọnrađểnghiêncứutùy theomụcđích nghiêncứukhácnhau.

Nhưvậy,tiêu thứcthốngkêkhôngphảilàtấtcả nhữngđặcđiểm củađơnvịtổngthểmàchỉlà những đặcđiểmđượcchọnrađể nghiêncứu.

Vídụ:TrongtổngthểcáccổđôngcủacôngtyA, mỗicổđônglàmộtđơnvịtổngthể.Cáccổđôngnày,đượcxácđịnhtheocácđặcđiểmkhácnhaun hư:họtên,tuổi,giớitính,nghề nghiệp, sốcổphiếunắmgiữ,tỷlệnắmgiữ...Mỗiđặcđiểm nàykhiđượcchọnrađể nghiêncứulà mộttiêuthứcthốngkê.

Trong nghiên cứu thống kê, tiêu thức thống kê còn được gọi là các biến. Ví dụ, khi nghiên cứu đặc điểm của sinh viên trong một trường, cần phải thu thập thông tin về các biến: năm học, giới tính, ngành học,... Biểu hiện của những biến này đối với mỗi sinh viên là khác nhau. Một sinh viên có thể là sinh viên năm thứ hai, là nam giới, học ngành Quản trị kinh doanh, trong khi đó, sinh viên khác lại là sinh viên năm thứ nhất, là nữ giới, học ngành Kế toán. Tiêu thức giúp xác định rò từng đơn vị tổng thể, nhờ đó ta có thể phân biệt đơn vị này với đơn vị khác.

1.2.2.2. Phân loại tiêu thức thống kê

Tiêu thức thống kê gồm các loại sau:

- Tiêu thức thực thể: Là loại tiêu thức phản ảnh đặc điểm về nội dung của đơn vị tổng thể. Tùy theo cách biểu hiện mà có hai loại:

+ Tiêu thức thuộc tính: là tiêu thức mà các biểu hiện của nó được dùng để phản ánh các thuộc tính của đơn vị tổng thể và không có các biểu hiện trực tiếp bằng con số. Ví dụ: tiêu thức giới tính, nghề nghiệp, dân tộc, thành phần kinh tế,...

Tiêu thức thuộc tính có hai loại: Thứ nhất, tiêu thức thuộc tính có biểu hiện trực tiếp chẳng hạn như giới tính có hai biểu hiện: nam và nữ, các biểu hiện này được dùng để chỉ rò người này là nam giới còn người kia là nữ giới. Thứ hai, tiêu thức thuộc tính có biểu hiện gián tiếp, chẳng hạn như tiêu thức mức sống có biểu hiện gián tiếp qua thu nhập, diện tích nhà ở..., các biểu hiện gián tiếp của tiêu thức thuộc tính được gọi là tiêu chí thống kê.

+ Tiêu thức số lượng là tiêu thức phản ánh các đặc điểm về lượng của đơn vị tổng thể và có các biểu hiện trực tiếp bằng con số, mỗi con số được gọi là một lượng biến. Ví dụ: số nhân khẩu trong gia đình, tiền lương tháng của người lao động, năng suất lao động,... Các lượng biến là cơ sở để thực hiện các phép tính thống kê. Có hai loại lượng biến: lượng biến rời rạc (biểu hiện bằng số nguyên) và lượng biến liên tục (biểu hiện bằng cả số nguyên và số thập phân).

- Tiêu thức thời gian: là loại tiêu thức phản ánh hiện tượng nghiên cứu theo sự xuất hiện của nó ở thời gian nào. Ví dụ: có dữ liệu về số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam theo quý trong năm năm qua thì ―quý‖ là tiêu thức thời gian.

- Tiêu thức không gian: là loại tiêu thức phản ánh phạm vi lãnh thổ bao trùm và sự xuất hiện theo địa điểm của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ tiêu thức ―tỉnh/ thành phố‖ trong dữ liệu phản ánh giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam theo tỉnh/ thành...

1.2.3. Chỉ tiêu thống kê

1.2.3.1. Khái niệm chỉ tiêu thống kê

Nếu như tiêu thức thống kê phản ánh đặc điểm của đơn vị tổng thể thì chỉ tiêu thống kê phản ánh đặc điểm của số lớn đơn vị tổng thể hoặc cả tổng thể. Chỉ tiêu thống kê có được do việc tổng hợp các đặc điểm về lượng của nhiều đơn vị, hiện tượng cá biệt thành những con số của một số lớn hiện tượng trong điều kiện thời gian, không gian cụ thể để biểu hiện rò bản chất, quy luật của hiện tượng nghiên cứu.

Như vậy, chỉ tiêu thống kê phản ánh mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian, không gian cụ thể.

Ví dụ: Theo niên giám thống kê năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm 2010 (tính sơ bộ) theo giá thực tế là 1.980.914 tỷ đồng; mật độ dân số cả nước năm 2010 là 263 người/km2.

Chỉ tiêu thống kê bao gồm hai mặt: khái niệm và mức độ của chỉ tiêu. Mặt khái niệm của chỉ tiêu bao gồm các định nghĩa và giới hạn về thực thể, thời gian và không gian. Mức độ của chỉ tiêu là các trị số phản ánh quy mô, quan hệ so sánh hoặc cường độ của hiện tượng với các đơn vị tính phù hợp. Ví dụ, với chỉ tiêu mật độ dân số cả nước năm 2010 là 263 người/km2 thì mặt khái niệm của chỉ tiêu là ―mật độ dân số cả nước năm 2010‖ còn mức độ của chỉ tiêu là 263 với đơn vị tính là người/km2.

1.2.3.2. Phân loại chỉ tiêu thống kê

Căn cứ theo các tiêu thức khác nhau để phân loại thì chỉ tiêu thống kê có thể được phân thành các loại sau:

- Theo hình thức biểu hiện, chia thành hai loại:

+ Chỉ tiêu hiện vật: là chỉ tiêu có biểu hiện bằng đơn vị tự nhiên hoặc đơn vị đo lường quy ước. Ví dụ: số dân một địa phương (đơn vị người), sản lượng sản phẩm sản xuất (đơn vị mét, tấn), ...

+ Chỉ tiêu giá trị: là chỉ tiêu có biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ như đồng Việt Nam, đô la Mỹ,... Ví dụ: GDP, giá trị sản xuất công nghiệp (đơn vị đồng Việt Nam), FDI (đơn vị đô la Mỹ), ...

- Theo tính chất biểu hiện, chia thành hai loại:

+ Chỉ tiêu tuyệt đối: là chỉ tiêu phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng. Ví dụ: Số học sinh lớp 12 trường trung học phổ thông A là 50 em là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô của hiện tượng, sản lượng vải sản xuất trong tháng 6 năm 2011 của nhà máy dệt X là 1 triệu mét là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh khối lượng của hiện tượng.

+ Chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ so sánh giữa các mức độ của hiện tượng. Ví dụ: tốc độ phát triển doanh thu của doanh nghiệp A năm 2016 so với năm 2015 là 110%.

- Theo đặc điểm về thời gian, chia thành hai loại:

+ Chỉ tiêu thời kỳ: phản ánh mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu trong một thời kỳ nhất định, phụ thuộc vào độ dài của thời kỳ nghiên cứu. Khi là chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể cộng với nhau để tính chỉ tiêu trong thời kỳ dài hơn.

Ví dụ: Doanh thu của doanh nghiệp A quý I/2015 là 1,2 tỷ đồng, quý II/2015 là 1 tỷ đồng, quý III/2015 là 0,7 tỷ đồng và quý IV/2015 là 1,1 tỷ đồng. Vậy có thể tính chỉ tiêu tổng doanh thu của doanh nghiệp A năm 2015 là 4 tỷ đồng.

+ Chỉ tiêu thời điểm: Phản ánh mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu tại một thời điểm nhất định, không phụ thuộc vào độ dài thời kỳ nghiên cứu. Thông thường chỉ tiêu

này phản ánh nguồn lực như lao động, vốn, .... Không thể cộng với nhau để tính chỉ tiêu trong thời kỳ dài hơn.

Ví dụ: Số dân Việt Nam ngày 1/4/2013 là 89.759,5 nghìn người. Số dân Việt Nam ngày 1/4/2014 là 90.728,9 nghìn người.Số dân Việt Nam ngày 1/4/2015 là 91.713,3 nghìn người. Khi đó, không thể cộng ba chỉ tiêu trên để ra chỉ tiêu số dân Việt Nam thời kỳ 2013- 2015.

- Theo nội dung phản ánh, chia thành hai loại:

+ Chỉ tiêu khối lượng: phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng nghiên cứu theo thời gian và địa điểm cụ thể.

Ví dụ: Số dân Việt Nam vào 0 giờ ngày 1/4/2009 là 85.846.997 người.

+ Chỉ tiêu chất lượng: biểu hiện trình độ phổ biến và mối quan hệ so sánh trong tổng thể. Chỉ tiêu chất lượng có thể là số tương đối, số bình quân chứ không biểu hiện bằng số tuyệt đối.

Ví dụ: Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người của Việt Nam năm 2009 là 1.064 USD/người.

1.2.3.3. Hệ thống chỉ tiêu thống kê

Hệthốngchỉtiêuthốngkêlàmộttập hợpnhiều chỉtiêu nhằm phảnánhnhữngđặcđiểm, tínhchấtquantrọngnhất,nhữngmốiliênhệchủ yếu nhấtcủahiệntượngđượcnghiêncứu.

Nhữngmối liên hệ chủ yếu ở đây gồm có mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng và mối liên hệ giữa hiện tượng nghiên cứu và hiện tượng có liên quan. Hệ thống chỉ tiêu thống kê có vai trò rất quan trọng: là căn cứ, là cơ sở để tiến hành nghiên cứu thống kê.

Ý nghĩa:Hệ thống chỉ tiêu thống kê cho phép lượng hóa các mặt quan trọng nhất, lượng hóa cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của hiện tượng nghiên cứu để từ đó có thể nhận thức được bản chất cụ thể và tính quy luật của hiện tượng.

Nhưng để hệ thống chỉ tiêu có chất lượng, hiệu quả phản ánh được bản chất của hiện tượng và có tính khả thi thì nó phải tuân theo một số yêu cầu nhất định.

Một số yêu cầu cơ bản để xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê:

- Phải xuất phát từ mục đích nghiên cứu cụ thể và đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu.

- Phải phản ánh những đặc điểm, những tính chất chủ yếu nhất, những mối liên hệ cơ bản nhất của hiện tượng nghiên cứu.

- Phải có tính khả thi, tức là có thể thu thập được tài liệu để tính toán.

Trong thống kê, mặt lượng bao giờ cũng đi liền với mặt chất của hiện tượng được nghiên cứu.Tuynhiên,không phải sựvật, hiệntượngnàocũngcóthểlượnghoáđược.Do vậy, để lượnghoá,nhấtlàkhixửlýcáctiêuthứcthuộctính,ngườitaphảidùngtớicácthang đo. Nhưng có những thang đo nào và chúng dùng để lượng hóa như thế nào?

Xem tất cả 166 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí