Tính An Toàn Và Tính Sinh Miễn Dịch Của Jecevax Sản Xuất Từ Chủng Bv- Wsv-0310 Ở Quy Mô Phòng Thí Nghiệm


tạo kháng thể bảo vệ sau mũi 2 là 99,62% và 100% sau mũi 3. Để chính thức đưa vắc xin này vào sản xuất và sử dụng đại trà thì việc đánh giá tính ổn định về mặt di truyền và sự tương đồng về kháng nguyên E của chủng sản xuất và chủng gốc so với các chủng virút VNNB lưu hành ở Việt Nam là rất cần thiết. Các lô chủng gồm chủng gốc BV-MSV-0210 và chủng sản xuất BV-WSV-0310 so với chủng chuẩn gốc tham chiếu Beijing-1 Kanonji do Nhật Bản cung cấp. Kết quả giải trình tự gen cho thấy, 2 lô chủng có sự tương đồng về axit amin và nucleotide là 100% so với chủng tham chiếu. Tuy nhiên, thực trạng sự tương đồng này đã giảm dần theo thời gian như đã đề cập ở trên. Liệu có phải do áp lực khi dùng vắc xin VNNB từ năm 1990 đã tạo nên các chủng đột biến để trốn tránh dần khả năng bảo vệ của vắc xin hay không? Theo Roy U el al., (2020), khi cấu trúc của các epitope sinh kháng thể trung hòa thay đổi thì có thể làm cho virút VNNB trốn tránh được khả năng bảo vệ của kháng thể trung hòa tạo ra bởi vắc xin[84]. Để có thể làm sáng tỏ vấn đề này, nghiên cứu sử dụng phương pháp của Luca VC et al., (2012) để so sánh trình tự axit amin trong vùng epitope sinh kháng thể trung hòa thuộc Domain I, II và III của chủng gốc, chủng sản xuất và chủng tham chiếu với chủng virút VNNB lưu hành trên người phân lập năm 2014. Kết quả cho thấy, không có sự thay đổi của các axit amin quyết định cấu hình của kháng nguyên thuộc các epitope này. Điều đó phần nào lý giải vắc xin được sản xuất từ chủng sản xuất có nguồn gốc từ chủng gốc vẫn tạo kháng thể bảo vệ đạt 100%. Theo công bố của Đỗ Tuấn Đạt et al., (2017), vắc xin JECEVAX được sản xuất từ chủng gốc BV-MSV-0210 và chủng sản xuất BV-WSV-0310 đạt an toàn, có hiệu quả bảo vệ sau 2 liều là 99,62% và sau 3 liều là 100%[29]; Hiệu giá kháng thể trung hòa GMT sử dụng phương pháp PRNT50 tăng lên sau tiêm 2 liều là 2,09 log và sau 3 liều là 3,04 log. Kết quả này tương đương với vắc xin cùng loại của Nhật bản (CC-JEV) và Cộng hòa Áo (IXIARO); hiệu quả bảo vệ của JECEVAX thậm trí còn cao hơn so với nhóm đối chứng JEVAX®đạt 99% (vắc xin đang sử dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam, sản xuất trên não chuột với chủng Nakayama).

Một số vắc xin khác đang lưu hành ở Việt Nam là Imojev (vắc xin vi rút sống khảm, chủng SA14-14-2, Sanofi Pasteur -Pháp sản xuất) hay vắc xin JEEV (Ấn Độ sản xuất) cũng chỉ đạt hiệu quả bảo vệ từ 95- 98%. Sự mở rộng về địa lý của vi rút VNNB đã dẫn đến sự lây truyền vi rút lưu hành ở những vùng mà các Flavivirustrong


nhóm có quan hệ kháng nguyên khăng khít cùng tồn tại, tức là vi rút West Nile (WNV) ở Ấn Độ, và vi rút viêm não Thung lũng Murray (MVEV) và ở Australia. Các nghiên cứu trên động vật, việc lây nhiễm những loại virút này có khả năng tạo ra miễn dịch chéo, tồn tại lâu dài chống lại những virút khác[44].

Tuy nhiên, trong các nghiên cứu phòng thí nghiệm, việc tiêm vắc xin phòng vi rút VNNB và các Flavivirus gây bệnh viêmnão có liên quan đến miễn dịch bảo vệ chéo[26, 28, 85]hoặc khả năng miễn dịch tăng cường [28]chống lại các vi rút khác thuộc huyết thanh VNNB.

Ngoài ra, các ngân hàng chủng vi rút sau khi sản xuất cũng cần đảm bảo đồng nhất và không nhiễm các tác nhân ngoại lai gồm vi rút ngoại lai, Mycoplasma, vi khuẩn, vi nấm[86, 87]. Trên cơ sở hướng dẫn của WHO, EU, EMA, kiểm định vi rút ngoại lai đã được thực hiện trên các lô chủng gốc BV-MSV-0210 và chủng sản xuất BV-WSV-0310 bằng hai phương pháp, trên chuột thí nghiệm và trên tế bào. Việc kiểm tra vi rút ngoại lai trên chuột nhắt trưởng thành giúp phát hiện các loại vi rút ngoại lai như: vi rút viêm màng tế bào lympho (Lymphacytic chorimeningitis virus: LCM); Coxsackieviruses, Flaviviruses (vi rút gây bệnh sốt vàng) & vi rút dại (Rabies virus).Coxsackieviruses là vi rút RNA có thể gây ra bệnh tay, chân và miệng (HFMD), cũng như bệnh về cơ, phổi và tim. Việc kiểm soát vi rút này giúp loại trừ các bệnh có thể nguy cơ do con người tạo ra trong quá trình thao tác…Vi rút viêm màng phổi lympho bào (LCM) là một bệnh truyền nhiễm do vi rút gặm nhấm gây ra như viêm màng não vô khuẩn, viêm não hoặc viêm màng não. Tác nhân gây bệnh vi rút viêm màng tế bào Lympho mammarenavirus (LCMV), một thành viên của gia đình Arenaviridae. Đây là nhóm các vi rút cùng họ hoặc cùng nhóm với chủng vi rút VNNB mà lại có nguồn gốc từ các loài gặm nhấm (như chuột). Chủng Beijing-1 cho sản xuất vắc xin JECEVAX cũng có nguồn gốc cấy chuyển tăng sinh trên não chuột nên cần thiết kiểm tra. Ngoài chuột nhắt trắng trưởng thành, chuột nhắt ổ cũng được sử dụng trong kiểm tra vi rút ngoại lai trong trường hợp này. Việc kiểm tra vi rút ngoại lai trên chuột ổ giúp phát hiện các loại vi rút: virútgây bệnh trên người, như Coxsackievirustype A và B (type B cũng có thể phát hiện được trong nuôi cấy tế bào) và các loại Picornavirus khác (ví dụ virút bại liệt và vi rút Echovirus), Alphavirus,


Bunyaviruses,Flaviviruses, vi rút dại và Herpesviruses (ví dụ, virútHerpes simplex). Thử nghiệm này cũng có thể phát hiện nhiều tác nhân từ chuột.Coxsackievirustype A cũng gây viêm mí mắt và vùng trắng của mắt (viêm kết mạc). Coxsackievirus A6 (CVA6) đã gây ra bệnh Herpangina (mụn nước miệng) ở trẻ sơ sinh. Vi rút type B gây ra bệnh viêm màng phổi.Bunyaviridae được chia thành các loại vi rútArthropod (Arboviruses) và virút gặm nhấm (Roboviruses). Bunyavirus gây ra một số bệnh ở người và động vật nuôi, bao gồm sốt, sốt xuất huyết, suy thận, viêm não, viêm màng não, mù lòa và ở động vật nuôi trong nhà, dị tật bẩm sinh.Alphavirus là một chi của vi rút RNA, chi duy nhất trong họ Togaviridae. Các vi rút Alphav thuộc nhóm IV của phân loại virút ở Baltimore, với bộ gen RNA đơn chuỗi. Có 31 Alphavirus, lây nhiễm các loài động vật có xương sống khác nhau như người, động vật gặm nhấm, cá, chim và các động vật có vú lớn hơn như ngựa, cũng như động vật không xương sống. Sự lây truyền giữa các loài và cá thể xảy ra chủ yếu qua muỗi, làm cho các Alphavirus trở thành thành viên của bộ sưu tập Arbovirus - hay vi rút do Arthropod.Echovirus đề cập đến một nhóm vi rút đa bào liên kết bởi mối liên hệ của chúng với bệnh đường ruột ở người. Những vi rút này ban đầu không liên quan đến bệnh tật nhưng nhiều loại đã được xác định là tác nhân gây bệnh.

Kiểm tra vi rút ngoại lai trên chuột langgiúp phát hiện vi khuẩn gây bệnh lao và các loại virút ngoại lai khác bao gồm cả Paramyxovirus (bao gồm cả vi rútSendai(vi rút gây bệnh gặm nhấm), Reovirus Filovirus.Paramyxovirus là một trong những nhóm virút RNA chủ yếu gây ra các bệnh hô hấp cấp tính và thường lây truyền qua các giọt trong không khí. Các paramyxovirus bao gồm các tác nhân của quai bị, sởi (Rubeola), RSV (virút hợp bào hô hấp), bệnh Newcastle và parainfluenza.Reovirus là một loại virútRNA sợi kép không có độ ổn định cao, dẫn đến nhiễm trùng không triệu chứng, không gây bệnh hoặc viêm dạ dày ruột nhẹ ở người. Một loạt các tế bào động vật có vú có thể bị nhiễm bệnh thông qua thụ thể của nó.Họ Filoviridae (filovirus hoặc filovirids) tạo thành các hạt vi rút truyền nhiễm dạng sợi (virion) RNA gây bệnh. Hai thành viên trong gia đình thường được biết đến là virút Ebola và virút Marburg. Cả virút và một số họ hàng ít được biết đến của chúng đều gây bệnh nặng ở người và linh trưởng dưới dạng sốt xuất huyết do vi rút. Kết quả thực tế của nghiên cứu cả chủng gốc và chủng sản xuất đều đạt yêu cầu về thử nghiệm


kiểm tra vi rút ngoại lai trên cả chuột nhắt ổ, chuột nhắt trưởng thành và chuột lang đã giúp khẳng định chủng không có các tác nhân vi rút ngoại lai ở trên.

Thử nghiệm in vitro (kiểm tra vi rút ngoại lai trên tế bào) có thể phát hiện nhiều loại virút tiềm tàng bao gồm vi rút của tế bào, virút hấp phụ hồng cầu và các virút ngưng kết hồng cầu (hemagglutinating viruses), các vi rút này có thể có trong các nguyên liệu đầu vào dùng để sản xuất chủng (môi trường nuôi cấy, huyết thanh bào thai bê, MEM, DMEM, tế bào Vero), thậm trí cũng có thể nhiễm trong quá trình nhân chủng … Trong nghiên cứu chúng tôi kiểm tra vi rút ngoại lai trên dòng tế bào MRC5 (dòng tế bào lưỡng bội người), tế bào Vero & tế bào BHK21 (dòng tế bào thận chuột Hamster) vì đây là những dòng tế bào được FDA, dược điển Châu Âu, TCYTTG khuyến cáo dùng cho thử nghiệm này.

Tế bào lưỡng bội của người (Human diploid Cells): MRC5(Medical Research Council cell strain 5) là dòng tế bào phôi phổi bào thai người để phát hiện các vi rút của người như: adenoviruses, alphaviruses, coronaviruses, enteroviruses (gồm poliovirus, echovirus, và coxsackie B virus), flaviviruses, certain strains of hepatitis A virus, herpesviruses (như herpes simplex virus, varicella zoster virus, và cytomegalovirus), orthomyxoviruses, paramyxoviruses, rabies virus, reoviruses, 1 số rhinoviruses, vàvi rút rubella. Simian viruses: SCMV (simian cytomegalovirus).Tế bào thận khỉ (như Vero) để phát hiện các vi rút của người: adenoviruses (1 số chủng), alphaviruses, arenaviruses, bunyaviruses (gồm phleboviruses và nairoviruses), enteroviruses (như polioviruses, coxsackie B viruses, echoviruses) , filoviruses, flaviviruses,vi rút herpes, các vi rút cúm, orthomyxoviruses, paramyxoviruses, polyomaviruses, poxviruses, các vi rút dại, reoviruses, rhinoviruses, rotaviruses, rubella virus, và vesiculoviruses.

3.2.3. Tính an toàn và tính sinh miễn dịch của JECEVAX sản xuất từ chủng BV- WSV-0310 ở quy mô phòng thí nghiệm

Viêm não Nhật Bản là một trong các nguyên nhân hàng đầu gây viêm não gây do virút ở Châu Á. Do vậy, vắc xin phòng bệnh VNNB đã được phát triển từ khá sớm với một số công nghệ phổ biến như vắc xin bất hoạt trên não chuột, vắc xin bất hoạt trên tế bào Vero [4, 5, 29, 46]. Vắc xin VNNB được sản xuất và đưa vào sử dụng thương mại đã giúp bảo vệ hàng triệu trẻ em trên khắp thế giới thoát khỏi căn bệnh


hiểm nghèo. Quá trình nghiên cứu và phát triển các loại vắc xin đều cho thấy dù được sản xuất trên công nghệ, kỹ thuật nào,tính an toàn và tính sinh miễn dịch là 2 yếu tố quyết định đồng thời về chất lượng của một loại vắc xin [51, 53, 88]. Nếu loạt vắc xin chỉ an toàn mà không đủ sinh miễn dịch hoặc ngược lại đáp ứng miễn dịch cao nhưng các thử nghiệm an toàn không đạt thì loạt vắc xin đó không thể được cấp phép xuất xưởng. Là sản phẩm dùng cho người và không phải cho một cá thể dùng mà cho hàng loạt người trong cộng đồng, đặc biệt là trẻ em. Vì vậy, phải đảm bảo an toàn tuyệt đối, trong phạm vi đề tài này chúng tôi đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch bảo vệ ổn định của chủng để sản xuất các lô vắc xin thành phẩm ở quy mô phòng thí nghiệm làm cơ sở cho các nghiên cứu thử nghiệm trên người tại Việt Nam.

Trong nghiên cứu, vắc xin VNNB JECEVAX sản xuất tại Việt Nam từ chủng Beijing-1 đã được kiểm tra tính an toàn và tính sinh miễn dịch bảo vệ cả trong quy mô phòng thí nghiệm.

Kiểm tra tính an toàn trên động vật: vắc xin JECEVAX được kiểm tra an toàn bằng 3 thử nghiệm là an toàn chung trên chuột nhắt và chuột lang, an toàn đặc hiệu trên chuột nhắt và chất gây sốt trên thỏ. Các thử nghiệm này được thực hiện theo đúng hướng dẫn của TTYTTG số 963 (WHO TRS 963) và Dược điển Việt Nam V, 2017 [22, 43]. Nghiên cứu được thực hiện với 10 lô vắc xin VNNB JECEVAX, 100% các lô vắc xin đều đạt tính an toàn trên chuột và thỏ theo quy định của TCYTTG (WHO TRS 963) và dược điển Việt Nam V, 2017. Trong đó, tính an toàn chung trên chuột nhắt tăng trọng từ 110-149,5% và chuột lang tăng trọng từ 105-121% sau 7 ngày tiêm phúc mạc vắc xin 1 ml/con chuột nhắt và 5 ml/con chuột lang.Tính an toàn đặc hiệu chuột tăng trọng từ 187,5-217,1% sau 14 ngày tiêm vắc xin liều 0,03 ml vào não chuột. Về thử nghiệm yếu tố gây sốt, với liều 1 ml vắc xin/1kg trọng lượng thỏ, tiêm vào tĩnh mạch tai thỏ, phản ứng đầu tiên là sốt nếu trong vắc xin có nhiều protein tạp, không tinh khiết hoặc trong quá trình sản xuất có tạp nhiễm các vi sinh vật (vi khuẩn, vi rút, vi nấm). Kết quả kiểm tra chất gây sốt của 10 lô vắc xin đều đạt yêu cầu rất tốt, có 3 lô tổng nhiệt độ 3 thỏ tăng 0,7-0,8oC; 1 lô tăng 1,2 oC còn lại 6 lô nhiệt độ tăng nhẹ ≤ 0,4oC (tiêu chuẩn yêu cầu ≤ 1,3oC).Các nghiên cứu tiền lâm sàng là cơ sở quan trọng trong quá trình phát triển thương mại hóa trong sản xuất vắc xin.


Tương tự như các loại vắc xin khác[20, 46, 89], các dữ liệu kiểm định an toàn ở phòng thí nghiệm của 10 loạt vắc xin VNNB JECEVAX cũng được tổng hợp và gửi cùng hồ sơ sản xuất của vắc xin này đến NICVB, NICVB đã kiểm tra đánh giá chất lượng lại và kết quả cũng đều đạt yêu cầu xuất xưởng và cho phép sử dụng.

Kết quả khả quan của thử nghiệm tính an toàn trên động vật thí nghiệm của vắc xin VNNBJECEVAX là tiền đề quan trọng của các kết quả thử nghiệm lâm sàng trên người.

Một khía cạnh khác vô cùng quan trọng trong nghiên cứu và sản xuất vắc xin, đó là khả năng bảo vệ hay công hiệu. Công hiệu của vắc xin được tính bằng hiệu giá kháng thể trung hòa log10n, đó là kết quả định lượng kháng thể trung hòa bằng kỹ thuật trung hòa giảm đám hoại tử (PRNT). Hiệu giá kháng thể trung hòa của 10 lô vắc xin JECEVAX ở từng lần làm đều cao hơn hiệu giá trung hòa của vắc xin mẫu chuẩn và đều >1,3log (giới hạn tối thiểu cho phép của thử nghiệm kiểm tra hiệu giá trung hòa tham chiếu theo vắc xin JECEVAX (Biken) là ≥ 1,3log). 10/10 loạt vắc xin có hiệu giá kháng thể trung hòa tương quan mẫu thử/mẫu chuẩn BR209 đều >1. Đạt yêu cầu của TCYTTG (mẫu vắc xinthử ≥ mẫu chuẩn).Với kết quả thu được ở trên chúng ta có thể khẳng định chủng sản xuất Beijing-1 (BV-WSV-0310) để sản xuất JECEVAX đều đạt yêu cầu tính an toàn và tính sinh miễn dịch trên chuột ở quy mô phòng thí nghiệm. Ngoài đánh giá tính sinh miễn dịch trong phòng thí nghiệm, vắc xin JECEVAX đã thử nghiệm lâm sàng xong cả 3 giai đoạn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi tiêm đủ 2 liều vắc xin JECEVAX 99,62% đối tượng nghiên cứu đã tăng hiệu giá KTTH >0,4 log (tăng 4 lần). Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có KTTH sau liều 2 tăng > 1,0 log ở vắc xin JECEVAX cao hơn vắc xin đối chứng JEVAX®(HGKT chỉ đạt 99,0%). Theo số liệu tổng kết báo cáo của Viện Vệ Sinh dịch tễ trung ương tại hội nghị TCMR QG 2020, đến năm 2019 (bảng 1.2), hiệu quả phòng bệnh giảm rõ từ 1454 ca (năm 1991) còn 196 ca (năm 2019) – tức giảm gần 90%. Vắc xin ngoại từ 2019 mới chính thức vào VN, còn trước đấy toàn dùng vắc xin JEVAX do VN sản xuất- tức nếu dùng vắc xin JECEVAX cũng sẽ cho kết quả tốt hơn hoặc tương đương.


Đồng thời chúng tôi cũng so sánh thêm các kết quả về tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh sau mũi 2 với các loại vắc xin VNNB khác đã được cấp phép lưu hành hiện nay như bảng sau:



Chủng

Dạng VX

Tỷ lệ % chuyển đổi HT sau mũi 2 (*)

Imojev (Pháp)

SA14-14-2/YF71/Vero

Sống giảm độc lực

96-99%

Jevax (VN)

Nakayama/Não chuột

Bất hoạt

99%

Jecevax (VN)

Beijing-1/Vero

Bất hoạt

99,62%

RS.JEV vaccinee (TQ)

SA14-14-2/PHK

Sống giảm độc lực

98%

JENVAC (Ấn Độ)

821564-XY/Vero

Bất hoạt

>95%

JEEV (Ấn Độ)

SA14-14-2/Vero

Bất hoạt, hấp phụ nhôm

65-71%

Encevac (Nhật)

Beijing-1/Vero

Bất hoạt

100%

JE-vax (Nhật)

Beijing-1/Não chuột

Bất hoạt

100%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn chất lượng vi rút Beijing-1 để ứng dụng sản xuất vắc xin viêm não Nhật Bản bất hoạt trên tế bào Vero tại Việt Nam - 13

(“*”: Tham chiếu từ các bài báo của các vắc xin trên qua các tác giả [45, 46, 51, 56, 57, 60, 90, 91, 92, 93]);

Kết quả vắc xin bất hoạt từ tế bào Vero, như vắc xin JECEVAX trong nghiên cứu này tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh sau mũi 2 chỉ kém hơn chút so với 2 loại vắc xin của Nhật Bản còn nó đã cho thấy những ưu thế so với một số loại vắc xin sản xuất bằng công nghệ bất hoạt từ não chuột hoặc vắc xin sống giảm độc lực. Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy, các vắc xin VNNB sản xuất bằng công nghệ bất hoạt từ tế bào Vero có công hiệu gấp 2-3 lần so với vắc xin sống giảm độc lực. Kết quả các nghiên cứu vắc xin sản xuất từ chủng giảm độc lực SA-14-14-2 cho thấy 92% có đủ kháng thể trung hòa sau một mũi tiêm và tỷ lệ có tỷ lệ kháng thể sau 4,5 và 8 tháng tiêm vắc xin lần lượt là 85% và 62%. Đồng thời, việc tiêm nhắc lại sau 8 tháng đã tạo ra hiệu giá bảo vệ 100% [51]. Vắc xin đầu tiên được phát triển theo phương pháp bất hoạt từ nuôi cấy tế bàolà vắc xin bất hoạt bằng formalin từ chủng SA-14-14-2 LAV thích ứng với tế bào Vero. Trong các thử nghiệm lâm sàng, cả hiệu giá trung bình và tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh của vắc xin được sản xuất ở mức liều 6–12 µg đều cao hơn so với vắc xin được sản xuất bằng công nghệ bất hoạt từ não chuột [45, 46, 56]. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng sử dụng vắc xin JEEV (Ấn Độ) với hai liều chuẩn (6 µg) tốt hơn so với việc sử dụng một liều cao hơn (12 µg) ở người lớn. Ở trẻ em 1- 3 tuổi, vắc xin VNNB bất hoạt từ tế bào Vero có tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh từ 65%

-71%, không có sự khác biệt đáng kể giữa liều 3µg hoặc 6 µg[57, 90, 91]. Đây cũng


là cơ sở để JECEVAX thử nghiệm hai liều tiêm trong phác đồ tiêm khuyến nghị của JECEVAX. Và kết quả cho thấy, tỷ lệ đáp ứng miễn dịch sau tiêm liều thứ 2 đã tăng lên đáng kể so với liều thứ nhất. Một loại vắc xin VNNB bất hoạt từ tế bào nuôi cấy khác là ENCEVAC (Nhật Bản) có nguồn gốc từ chủng P-1,cho thấy khả năng sinh miễn dịch tương ứng với vắc xin VNNB bất hoạt từ não chuột (JE-vax, Nhật) khi nghiên cứu giai đoạn I ở người lớn. Tỷ lệ chuyển dịch huyết thanh trên 2 loại vắc xin này sau mũi 1 tương ứng là 96,7% và 92,9% sau mũi 2 là 100% với cả 2 loại vắc xin. Trong nghiên cứu này cho thấy, phác đồ 1 liều duy nhất của vắc xin VNNB bất hoạt từ tế bào Vero có thể đảm bảo sinh miễn dịch trên một số nhóm đối tượng. Trường hợp này được mô tả trong một nghiên cứu tại Nhật Bản trên người trưởng thành từ 25–39 tuổi. Tuy nhiên, kết quả cũng nhấn mạnh việc tiêm nhắc lại liều hai là cần thiết để đảm bảo duy trì miễn dịch lâu dài của vắc xin [60, 92]. Trong các nghiên cứu ở giai đoạn III (vắc xin ENCEVAC) sau đó với trẻ 6-90 tháng tuổi, tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh trên 94% có thể đạt được với hai liều 5µg hoặc 2,5 µg và ba liều 1,25 µg [91, 93]. Trong một nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm về tính an toàn và khả năng sinh miễn dịch của vắcxin ENCEVAC ở 370 trẻ em khỏe mạnh được tiêm ba liều vắc xin VNNB bất hoạt từ tế bào nuôi cấy với hàm lượng kháng nguyên 5 μg, 2,5 μg hoặc 1,25 μg. Trẻ em được tiêm hai liều vắcxin thử nghiệm cách nhau 7-28 ngày, tiếp theo là một liều nhắc lại sau khi tiêm mũi thứ hai từ 6-12 tháng. Phác đồ ba liều cho thấy tính an toàn tốt mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan đến vắcxin. Sốt và phản ứng tại chỗ tiêm là những phản ứng không mong muốn thường được quan sát thấy sau mỗi liều tiêm vắc xin. Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh là 100%, 99,2% và 95,0% sau hai liều ở các nhóm 5 μg, 2,5 μg hoặc 1,25 μg, và 100,0% chuyển dịch kháng thể sau ba liều ở tất cả các nhóm [93]. Như vậy, kết quả thử nghiệm lâm sàng của vắc xin VNNB JECEVAX phù hợp với hầu hết các nghiên cứu về vắc xin VNNB bất hoạt từ tế bào Vero. Kết quả này cho thấy, chủng sản xuất BV- WSV-0310 có chất lượng cao sẽ sản xuất ra vắc xin JECEVAX đạt an toàn và miễn dịch trên người không thua kém các vắc xin cùng loại trên thế giới.Vắc xin của nội, giá thành sẽ thấp hơn rất nhiều so với giá vắc xin cùng loại nhập ngoại do đó rất phù hợp với người Việt nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/10/2022