Về cơ bản tạo chỗ việc làm hay cầu kỹ năng trên thị trường lao động sẽ do yếu tố kinh tế quyết định. Các chủ thể sản xuất là các doanh nghiệp, người sử dụng lao động sẽ là người có nhu cầu thuê/mua các kỹ năng của người lao động có kỹ năng. Nhu cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng cơ bản là phụ thuộc tăng trưởng kinh tế và đầu tư sản xuất và đặc điểm công nghệ sản xuất.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tập hợp cung việc làm như: tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng đầu tư, thay đổi cấu trúc sản xuất trong nền kinh tế, thay đổi cấu trúc ngành, dịch chuyển lao động, thay đổi công nghệ, các yếu tố chi phí sản xuất, tư liệu sản xuất hay tiền lương thay đổi. Tập hợp cung việc làm có thể được biểu diễn bằng hàm sau: Y = f (C, V, X, ....) trong đó các nhân tố cơ bản là vốn đầu tư và công nghệ quyết định cả về số lượng và sự kết hợp giữa vốn và lao động đồng thời với các yếu tố tổng hợp khác tạo nên số lượng và kết cấu việc làm.
c) Cầu việc làm hay cung lao động có kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng
Xuất phát từ góc độ người lao động, nhu cầu làm việc của các cá nhân thông thường xuất phát từ các nhu cầu: tạo và có thu nhập, phù hợp về sức khỏe, đặc điểm và năng lực cá nhân (tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ); điều kiện lao động (môi trường/luật pháp, quan hệ lao động và tổ chức lao động).
Các nhân tố tác động đến tập hợp cầu việc làm gồm: Số lượng lao động (L), chất lượng hay năng lực lao động T (kiến thức, kỹ năng, sức khỏe...), tiền lương/thu nhập (S) và các điều kiện làm việc khác (O) (điều kiện học tập, thăng tiến, môi trường làm việc, tổ chức xã hội và các quyền của người lao động). Khi đó tập hợp cầu việc làm có thể được biểu diễn dưới dạng hàm sau: Y = f (L, T, S, O....).
Cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề về cơ bản không có sự khác biệt vì cũng là cầu việc làm, nhưng chỉ khác nhóm đối tượng lao động có CMKT cụ thể là đã qua đào tạo nghề. Trong dài hạn, cầu việc làm sẽ tương ứng với lao động có việc làm với các đặc điểm việc làm hiện tại của lao động qua đào tạo nghề tương đương cung lao động qua đào tạo nghề (không tính thất nghiệp).
Về cơ bản cung lao động qua đào tạo nghề do ba bộ phận chủ yếu trong nền kinh tế (gồm cả hệ thống giáo dục và khu vực sản xuất kinh doanh) đảm nhận, đó là
đào tạo chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc thường là ngoài nhà trường; và đào tạo tại chức (tại chỗ) cho người lao động.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 1
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 2
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 3
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 5
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 6
- Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Cả ba bộ phận của hệ thống cung cấp có mục tiêu: (i) thu hút, hứng và đỡ những học sinh không học được lên hơn nữa và học sinh bỏ học không bị 'đào thải' ra khỏi hệ thống giáo dục, đào tạo; (ii) giữ cho người lao động tránh khỏi bị lạc hậu, không bị `bật khỏi’ thị trường lao động do thiếu kỹ năng; và (iii) cung cấp cho người sử dụng những công nhân và kỹ thuật viên có tay nghề, kỹ thuật. Ngoài ra, còn có các mục tiêu khác như đảm bảo cho học sinh, sinh viên và người học những kỹ năng nghề nghiệp phổ biến làm hành trang cho việc học tập suốt đời [128, tr.15]. Các mục tiêu nói trên, nhìn chung là để đảm bảo cung cấp kỹ năng cho thị trường lao động. Nhưng không phải bao giờ cũng đảm bảo cung ứng đầy đủ, phù hợp (số lượng, cơ cấu, chất lượng) với nhu cầu thị trường.
Trên thị trường lao động với một lượng lao động hiện hữu có cùng một kỹ năng hoặc tập hợp một lượng lao động với các kỹ năng khác nhau sẽ tạo nên một lượng cung. Tương ứng với nó là tập hợp lượng cầu kỹ năng từ khu vực sản xuất và nền kinh tế. Trong ngắn hạn và trung hạn, sự vận động của cung cầu phụ thuộc chủ yếu vào mức tiền lương, tiền công trả cho người lao động ở mỗi mức kỹ năng khác nhau. Khi có sự gia tăng về cầu lao động ở một mức kỹ năng cụ thể, trong khi lượng cung dài hạn trên thị trường chưa có sự thay đổi, tiền lương sẽ là biến điều chỉnh quan hệ tương quan cung cầu này. Về dài hạn, khoảng cách và sự khác biệt về tiền lương sẽ dẫn đến tăng lượng cung cho mức và loại kỹ năng mà thị trường đang có nhu cầu cao.
Trong mối tương quan với sản xuất của nền kinh tế, khi năng lực sản xuất được mở rộng, những nhu cầu lao động được mở rộng theo hướng làm dịch chuyển đường cầu từ D1 sang D2 thay vì thay đổi tiền lương, tiền công đối với điều chỉnh tạm thời trên thị trường lao động.
Trong tương quan trên thị trường lao động với phân khúc việc làm có kỹ năng thì đào tạo là yếu tố cơ bản chủ yếu làm tăng cung lao động có kỹ năng ở một mức
kỹ năng và loại kỹ năng cụ thể. Tuy nhiên đào tạo là yếu tố cung mang tính dài hạn, không phản ứng tức thì trên thị trường lao động mà phải có quá trình và thời gian để đào tạo, thời gian để người lao động trau dồi kỹ năng, thời gian để chuyển đổi nghề nghiệp, công việc và đào tạo lại v.v.....
ơng
D1
D2
S1
S2
1
0
L1
L2
Lao động
Tiền lư
W2 W
Biểu đồ 1.2: Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động
Trong dài hạn khi đào tạo tăng nhanh mức cung lao động có kỹ năng ra thị trường sẽ làm dịch chuyển đường cung từ S1 sang S2. Khi cân đối cung cầu đảm bảo và đào tạo đáp ứng tốt nhu cầu nền sản xuất thì về cơ bản tiền lương, tiền công (thực tế) không có sự thay đổi lớn.
Về cơ bản có thể phân tích mối quan hệ đào tạo, việc làm trên thị trường lao động thông qua phân tích quan hệ cung cầu lao động có kỹ năng. Xem xét vai trò chủ động của hệ thống đào tạo nghề trong cung ứng lao động có kỹ năng, một số nhân tố chủ yếu tác động đến cung lao động qua đào tạo nghề như: (i) Đầu vào là học sinh với trình độ khác nhau (Chất lượng dân số, kết quả giáo dục và phân luồng đào tạo); và (ii) Năng lực cung đào tạo của hệ thống đào tạo nghề.
Trong trường hợp một số nền kinh tế chuyển đổi (trường hợp của Cộng hòa Séc), có một hệ thống đào tạo với tỷ lệ lớn học sinh trung học (60-85%) vào luồng đào tạo nghề. Cung lao động qua đào tạo nghề quá nhiều tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm cho người lao động. Các nền kinh tế này sẽ buộc phải cải cách thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách thị trường lao động để gia tăng
sức hút, tạo việc trong khu vực tư nhân nhằm điều chỉnh cơ cấu lao động. Sau đó đa dạng hóa chương trình đào tạo, giúp người lao động thay đổi kỹ năng cho phù hợp.
Khi nền kinh tế có tốc độ tăng lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với tốc độ gia tăng việc làm, áp lực tạo việc làm gia tăng, áp lực cạnh tranh tìm kiếm việc làm cũng tăng, dẫn tới xu hướng gia tăng thất nghiệp. Một số quốc gia đã phải điều chỉnh thông qua chính sách giáo dục, đào tạo bằng cách tăng thời gian học tập THCS, THPT, tăng lượng học sinh học nghề thay vì đi làm ngay bằng cách giảm chi phí giáo dục, và tránh cho học sinh bỏ học. Thời gian đi học kéo dài hơn đối với toàn bộ lực lượng lao động sẽ giảm bớt số lượng học sinh bỏ học, nghỉ học và tham gia lao động sớm, làm giảm áp lực việc làm.
Tăng thời lượng đào tạo, kéo dài thời gian học tập để giảm áp lực cung lao động và cung lao động có trình độ thấp là chính sách mà nhiều quốc gia đã áp dụng (Hy Lạp, Malaysia). Một số quốc gia điều chỉnh cơ cấu cung bằng cách tạo điều kiện tăng cung lao động qua đào tạo nghề mà giảm cung lao động có trình độ đại học (Hy lạp) bằng cách tăng chi phí đào tạo đại học để nắn dòng chảy học sinh vào học nghề. Cách thức chính phủ mở rộng đào tạo nghề thông qua chính sách tài chính không phải là mở rộng tín dụng cho đào tạo nghề, học nghề mà thắt chặt tín dụng đối với đào tạo đại học [128, tr.16]. Có quốc gia lại sử dụng chính sách tạo cơ hội tốt hơn và tăng kỳ vọng việc làm của người lao động qua đào tạo nghề. Kết quả là tăng số người đi học nghề và giảm bớt áp lực việc làm đối với lao động trẻ.
Thiếu hụt cung kỹ năng cũng là trường hợp phổ biến của nhiều nền kinh tế. Các nước có tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quá nhanh dẫn đến tăng nhu cầu lao động qua đào tạo nghề trong khi lượng cung đối tượng này trong nền kinh tế không kịp đáp ứng. Hệ quả là gia tăng mức tiền lương đối với lao động có tay nghề cao, khoảng cách tiền lương giữa lao động không có tay nghề và lao động qua đào tạo nghề tăng mạnh. Cung lao động qua đào tạo nghề và các kỹ thuật viên trên thị trường trở nên không co dãn đối với tiền lương so với nhóm chưa qua đào tạo nghề hoặc không có nghề. Một số quốc gia đã trải qua tình trạng này như Hàn quốc và Malaysia những năm 1980-1990, Chile những năm 1980, khi nhu cầu lao động qua đào tạo nghề rất lớn so với lao động không nghề. Hàn quốc đã giải quyết bằng cách
tăng cung của hệ thống đào tạo nghề nghiệp lên và tiền lương thực tế tăng lên nhiều trong giai đoạn 1975-1993. Khoảng cách tiền lương giữa qua đào tạo nghề và lao động không nghề giảm từ 2,5 lần xuống còn 1,5 lần. Để đáp ứng cầu lao động qua đào tạo nghề tăng nhanh như vậy việc quan trọng là phải làm sao khuyến khích, động viên và thúc đẩy đào tạo của doanh nghiệp đặc biệt là loại hình đào tạo tại chức, kèm cặp tại chỗ [128, tr.8].
1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề
1.3.1. Vai trò của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm biểu hiện chỗ, vị trí, yêu cầu kỹ năng của người lao động. Mỗi chỗ việc làm xác định bởi tập hợp các yêu cầu về hạ tầng, máy móc thiết bị, công nghệ, điều kiện làm việc, các chính sách, thiết chế ràng buộc và yêu cầu về kỹ năng của người lao động. Cơ cấu việc làm về dài hạn được phản ảnh vào kết cấu của lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế. Các nền kinh tế có trình độ sản xuất, trình độ công nghệ khác nhau và mức độ công nghiệp hóa khác nhau, qui mô và vai trò của đội ngũ và việc làm của lao động qua đào tạo nghề khác nhau.
Cấu trúc trình độ CMKT của lực lượng lao động có xu hướng tăng dần tỷ lệ lao động có CMKT bậc cao so với các cấp trình độ CMKT thấp hơn. Quá trình phân hóa CMKT của lực lượng lao động dần dần hình thành và phát triển nhanh đội ngũ lao động là công nhân 'cổ trắng' so với lớp công nhân 'cổ xanh'. Theo số liệu của ILO, ở các nước phát triển đội ngũ công nhân bán lành nghề chiếm khoảng 5- 15%, công nhân lành nghề chiếm khoảng 30-50%, kỹ sư kỹ thuật và công nghệ chiếm khoảng 36-40%, lao động quản lý khoảng 22%, các nhà nghiên cứu và phát minh khoảng 14%. Trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ tương ứng là 60%, 22%, 9%, 6,5% và 2,5% [38, tr.16]. Khác biệt lớn là sự thay đổi cơ cấu ngay trong nhóm lao động qua đào tạo nghề giữa hai trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Các nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ công nhân lành nghề cao (50-70%) so với tỷ lệ này ở các nền kinh tế đang phát triển (20-30%). Những nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa như Malaysia, Indonesia, Thái lan v.v... tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề đang tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng 50%.
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong tổng thể việc làm của lực lượng lao động và trong kết cấu lao động có CMKT. Biểu hiện thông qua mức độ tập trung việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở các khu vực công nghiệp, dịch vụ, khu vực kinh tế hiện đại. Trong tương lai, khi khu vực nông nghiệp thu hẹp dần, lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng lao động chính tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế. Xét trên góc độ người tiêu dùng trong nền kinh tế thì lực lượng lao động qua đào tạo nghề là những công dân tầng lớp trung lưu đông đảo và là những người tiêu dùng chính trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
Lực lượng lao động đang tham gia sản xuất chính trong nền kinh tế là đội ngũ công nhân, những người trực tiếp sản xuất trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế. Lao động qua đào tạo nghề vì thế sẽ là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển giao công nghệ, nắm bắt các công nghệ tiên tiến và là biểu tượng của giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lao động qua đào tạo nghề đang là nhóm được quan tâm nhiều trong cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển tương đồng. Cạnh tranh có thể là gián tiếp thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc cạnh tranh trực tiếp thông qua cung cấp kỹ năng trên thị trường lao động quốc tế. Các nước phát triển tỷ trọng lao động làn nghề cao lớn hơn so với lao động có trình độ tay nghề thấp và không có tay nghề. Ở nước ta, tỷ trọng lao động có trình độ CMKT bậc trung sẽ tăng nhanh. Trong đó, nhóm lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng chủ đạo, biểu trung cho chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.
1.3.2. Một số đặc điểm chủ yếu về việc làm của lao động qua đào tạo nghề
a) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề mang tính chất thực hành và gắn với hoạt động sản xuất trực tiếp
Theo danh mục nghề nghiệp làm việc cho thấy một số đặc điểm cơ bản là: việc làm mang tính chất thực hành, phân bố vị trí công việc gắn với khu vực trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ, đại bộ phận việc làm này là công việc làm thuê, trình độ kỹ năng kỹ thuật mức trung bình, thu nhập và điều kiện lao động ở mức trung bình của xã hội.
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thường là những công việc trong các công xưởng, nhà máy chế biến, chế tạo, công nhân trong các công trường xây dựng, vận hành máy móc thiết bị, lái xe trong các doanh nghiệp vận tải, công nhân sửa chữa bảo trì các thiết bị máy cơ khí, công nghệ kỹ thuật điện, điện tử v.v.... một bộ phận khác nằm trong nhóm lao động phục vụ như lái xe, kỹ thuật viên số liệu, kế toán, hành chính văn phòng, lễ tân trực điện thoại v.v...
Nhóm nghề nghiệp việc làm chủ yếu của lao động qua đào tạo nghề tập trung vào nhóm việc làm có trình độ CMKT bậc trung. Trong số những công việc phân loại (theo danh mục nghề nghiệp do Tổng cục Thống kê) thì lao động qua đào tạo nghề tập trung rất nhiều vào các công việc thuộc nhóm 6,7,8 (Nhóm6: nhóm lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp; nhóm 7: thợ thủ công có kỹ thuật và các thợ có kỹ thuật khác có liên quan và nhóm 8: thợ kỹ thuật vận hành và lắp ráp máy móc thiết bị). Tất cả những loại việc làm thuộc các nhóm này, phần lớn là loại hình công việc thực hành đúng như tên gọi của nó ví dụ: thợ sơn, thợ gia công kim loại, thợ làm khuôn đúc, thợ rèn, thợ cơ khí và lắp ráp v.v...
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề tập trung nhiều trong các khu vực công nghiệp với các nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa. Các nước phát triển càng ngày càng rút được nhiều lao động ra khỏi khu vực sản xuất công nghiệp nhờ công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin để chuyển sang khu vực dịch vụ. Việc làm trong khu vực dịch vụ đòi hỏi những giao tiếp và sự hiện diện của con người khó thay thế. Với các nền kinh tế đã phát triển như các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức.... thì khu vực dịch vụ là khu vực thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề (chiếm trên 50% lực lượng lao động và 70% lao động qua đào tạo nghề).
Quá trình đào tạo nghề cũng phản ảnh tính chất công việc của người lao động sau khi tốt nghiệp đó là thời lượng đào tạo lý thuyết thường ít so với thực hành (thực hành khoảng 70-80% thời lượng đào tạo). Với các loại hình đào tạo kèm cặp, đào tạo tại doanh nghiệp thời lượng thực hành thậm chí lên đến 90-95% tùy loại hình công việc và mức độ yêu cầu đối với người lao động. Những kiến thức, tri thức và kỹ năng người lao động thu nhận được trong quá trình đào tạo thông qua phương pháp quan sát, thực hành, thực tập, thử làm là chính kết hợp với lý thuyết
cơ bản được trang bị. Một trong những tính chất công việc thường gắn liền với việc làm của lao động qua đào tạo nghề là những việc làm trực tiếp, gián tiếp tham gia sản xuất kinh doanh và thiên về thực hành (trong sản xuất, kinh doanh dịch vụ, kỹ thuật phục vụ đời sống v.v...).
b) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với kỹ thuật và công nghệ
Với các nền kinh tế hiện đại, sản xuất công nghiệp đã được tự động hóa nhiều, hàm lượng công nghệ và vốn trong sản xuất lớn thì yêu cầu về số lượng lao động ít nhưng yêu cầu về chất lượng, trình độ lao động và năng suất lao động cao. Những lĩnh vực thu hút lao động qua đào tạo nghề có kỹ thuật cao như chế tạo máy móc, lắp ráp máy, kỹ thuật viên cơ khí, điện tử trong các ngành.
Những ngành nghề có việc làm đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật thấp hơn và số lượng lao động qua đào tạo nghề nhiều hơn điển hình như ngành xây dựng, các ngành dịch vụ phục vụ cá nhân. Tùy theo mức công nghệ sử dụng thiên về lao động hay vốn, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được sử dụng là khác nhau. Trong nhóm ngành kinh tế công nghiệp chế biến tỷ trọng sử dụng lao động qua đào tạo nghề thường lớn nhất sau đó đến các ngành dịch vụ.
Mức công nghệ khác nhau phản ảnh mức huy động lao động khác nhau. Cùng một trình độ công nghệ của một quốc gia thì sự khác biệt về tương quan công nghệ/lao động cũng rất khác nhau giữa các ngành. Thông thường ngành công nghiệp và dịch vụ có nền công nghệ cao hơn khu vực nông nghiệp. Trong đó công nghiệp sản xuất, chế tạo các thiết bị điện, linh kiện điện tử, viễn thông, tin học v.v... có tương quan công nghệ/lao động lớn hơn các ngành như xây dựng, chế biến sản phẩm nông nghiệp v.v... Khu vực, ngành nào có công nghệ sản xuất mức trung bình, sử dụng nhiều nhân công thường mang lại nhiều việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Những ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao đòi hỏi ít lao động qua đào tạo nghề hơn, nhưng yêu cầu về trình độ kỹ năng, tay nghề cao hơn. Một số ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như công nghiệp chế biến (dệt may, giày da, chế biến thủy sản v.v...) công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế tạo máy móc thiết bị, xây dựng và lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp.