Cơ Sở Đề Xuất Giải Pháp Và Mô Hình Liên Kết “Bốn Nhà” Trong Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh.


phạm cam kết với nông dân vì các hợp đồng đầu ra của doanh nghiệp đã được ký từ trước, nếu tăng giá đầu vào (giá mua nông sản), doanh nghiệp sẽ bị lỗ. Điều này dẫn đến cả doanh nghiệp và nông dân đều bội tín, vi phạm hợp đồng.

Vai trò trọng tài của Nhà nước còn yếu, nhà nước vẫn chưa tạo ra được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà. Trong một số trường hợp, các bộ, ngành còn lúng túng, chưa có chế tài đủ mạnh và phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng, Nhà nước cũng chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết. Ngoài ra, một số lãnh đạo địa phương còn không biết hoặc chưa hiểu đầy đủ về chính sách liên kết “bốn nhà” nên chưa có sự hỗ trợ tích cực và hợp lý.

3.7.3. Một số Vinh.

vấn đề

cần thực hiện trong liên kết “bốn nhà”

ở tỉnh Trà

Để đẩy mạnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản và để

phương thức này thực sự đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tạo lập các quan hệ gắn kết chặt chẽ và ổn định giữa “bốn nhà”, giữa sản xuất và lưu thông của tỉnh Trà vinh, cần giải quyết một số vấn đề sau:

Nâng cao nhận thức của nông dân và doanh nghiệp về sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, về những khó

khăn thách thức của sản xuất nhỏ lẻ

manh mún hiện nay, về

sự cần thiết và

những lợi ích thiết thực của việc liên kết “bốn nhà”. Đa số nông dân Việt Nam nói chung ở Trà Vinh nói riêng còn mang nặng tâm lý tiểu nông, chỉ thấy được lợi ích trước mắt, không có tầm nhìn xa. Do vậy, cần phải cho họ thấy được lợi ích trước mắt và lâu dài khi tham gia liên kết bằng những ví dụ cụ thể. Trước hết, cần vận động những nông dân sản xuất giỏi liên kết với các hộ sản xuất khác và làm nòng cốt trong việc ký kết hợp đồng với các chủ thể khác. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ này khi liên kết với doanh nghiệp chính là ví dụ tốt nhất để thuyết phục các hộ dân khác tham gia vào liên kết. Quá trình hợp tác liên kết chỉ thành công khi nó xuất phát từ nhu cầu thực tế trong quá trình phát triển sản xuất của cả doanh nghiệp và người sản xuất là nông dân, khi các chủ thể tham gia liên kết thấy rõ được những lợi ích thiết thực của nó.


Phải căn cứ vào qui hoạch phát triển sản xuất ở các địa phương, các vùng, trong Tỉnh nhất là các vùng sản xuất nông sản tập trung chuyên canh phục vụ xuất khẩu, vùng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến (lúa, mía, rau xanh, trái cây, cà phê, tiêu…) để thúc đẩy việc ký kết hợp đồng tiêu thụ, cung cấp vật tư hàng hóa và thực hiện các chính sách hỗ trợ đầu tư (đất đai, giống, phân bón, thiết bị kỹ thuật, tập huấn chuyên môn …) cho các vùng tập trung chuyên canh nông sản.

Đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong nông nghiệp, tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa qui mô lớn, các chủ thể sản xuất hàng nông sản qui mô lớn. Đặc biệt cần phát triển mạnh HTX trong nông nghiệp theo tiêu chí mới, phải xây dựng các HTX thực sự vững mạnh. Chính các HTX nông nghiệp là những chủ thể phù hợp nhất trong việc tổ chức ký kết hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp, đồng thời cũng là nơi thực hiện hợp đồng hiệu quả nhất. HTX có thể được xem là hình thức tổ chức sản xuất đạt đến một quy mô sản phẩm nhất định để thực hiện hiệu quả nhiều tác động hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, về chuyển giao công nghệ, về vốn và nhất là dễ dàng trong việc đàm phán, xử lý hợp đồng theo các quy định hiện nay. Cần tuyên truyền vận động để nông dân tự nguyện hợp tác liên kết sản xuất trong các tổ đội sản xuất hoặc HTX để giảm bớt đầu mối ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tùy theo điều kiện cụ thể và từng ngành hàng, doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng với các bên đối tác là hộ nông dân sản xuất kinh doanh lớn, các hộ kinh tế trang trại (hoặc đại diện của họ là các nhóm hộ) các tổ đội sản xuất và HTX, các nông trường hoặc các thương nhân trung gian (như người buôn chuyến, thương lái, chủ vựa…).

Để hợp đồng được thực hiện thuận lợi, phải có cơ chế gắn kết lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia, đặc biệt là gắn kết người sản xuất với doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản trong lợi ích chung lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu. Khi đó nông dân và doanh nghiệp sẽ phải quan tâm thực sự đến hợp đồng, coi đó là lợi ích của chính mình.

Cụ thể hóa và áp dụng các chính sách khuyến khích cả doanh nghiệp lẫn nông dân trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản (ưu đãi đầu

tư hoặc tín dụng để thực hiện hợp đồng, thưởng theo kết quả thực hiện hợp

đồng, tham gia thực hiện các hợp đồng xuất khẩu nông sản của Chính phủ, hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tiếp cận thị trường…). Các doanh nghiệp cần bảo đảm đầy đủ và kịp thời các khoản đầu tư ứng trước cho nông dân (nhất


là tiền vốn, giống, phân bón…) để một mặt tạo điều kiện cho nông dân thực hiện hợp đồng một mặt để nâng cao cơ sở kinh tế và pháp lý của quan hệ ràng buộc giữa 2 bên theo hợp đồng. Áp dụng nhiều hình thức thỏa thuận trong hợp đồng để đảm bảo chia sẻ rủi ro, phân phối hài hòa lợi ích kinh tế đôi bên cả khi thuận lợi lẫn lúc khó khăn.

Xây dựng cơ chế điều hòa bảo hiểm cho hợp đồng tiêu thụ theo nguyên tắc lấy lãi bù lỗ; dành một phần lãi khi giá lên bù cho lỗ khi giá xuống để ổn định giá cả, từ đó ổn định lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp.

Phát huy tác dụng dẫn dắt, định hướng thị trường và nêu cao vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện hợp đồng; đồng thời tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm pháp luật của nông dân trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận và cam kết theo hợp đồng.

Thông qua phương thức hợp đồng kinh tế hai chiều, tạo điều kiện để

doanh nghiệp tham gia đầu tư vào sản xuất nông nghiệp và ngược lại, nông dân góp vốn đầu tư, mua cổ phần, liên doanh đầu tư cùng doanh nghiệp hoặc trở thành đơn vị kinh doanh vệ tinh của doanh nghiệp, từ đó dần hình thành và phát triển các tổ hợp nông - công - thương theo chế độ sở hữu hỗn hợp, thực hiện sự liên kết giữa nhà nông với nhà chế biến công nghiệp và nhà buôn, nhất thể hóa sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và lưu thông hàng hóa trên thị trường trong nước.

Đẩy mạnh việc hình thành liên kết các hiệp hội của những người cùng sản xuất, cùng kinh doanh chế biến một mặt hàng để tăng cường sức mạnh thương thảo. Đối với những vùng sản xuất không tập trung, sản lượng hàng hóa phân tán, những vùng xa, vùng sâu, việc hình thành những loại hình liên kết theo nhóm hộ liền cư hay nhóm hộ sản xuất cùng ngành hàng là rất cần thiết để giảm thiểu sức ép của thương lái, sức ép của thị trường. Do đặc điểm sản xuất nhỏ, nông dân cần hợp tác lại để có thể góp vốn mua dây chuyền đóng gói, kho lạnh bảo quản, chế

biến, mua phương tiện chở hàng đi xa… Ở một số nước như Nhật, Đài Loan,

diện tích sản xuất ở từng hộ nông dân nhỏ nên nông sản sản xuất ra được nông dân chở đến nông hội hoặc HTX. Các nơi này thu mua đóng gói vào thùng, cho vào kho lạnh rồi chở đi chợ thành phố hay xuất khẩu. Nhờ vậy nông dân không bị ép giá. Hình thức HTX hay câu lạc bộ những người trồng cây ăn trái, cây kiểng, hội nông dân, hiệp hội những người sản xuất điều, cà phê… không chỉ có tác dụng trong việc liên kết tiêu thụ sản phẩm, mà còn có tác dụng trong việc trao đổi kỹ


thuật, kinh nghiệm, tương trợ vốn, phổ biến thông tin về thị trường, giá cả… Đây cũng chính là cơ sở để hình thành các cụm nông - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn. Tất nhiên các hình thức liên kết hộ nông dân chỉ có thể được hưởng ứng trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.

Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản tại các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, tại vùng nguyên liệu để đa dạng hóa sản phẩm, cân bằng cung cầu khi vào thời vụ. Khuyến khích nông dân, hợp tác xã có vốn hoặc có chính sách vay vốn ưu đãi để họ đầu tư vào công nghiệp chế biến, vừa nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông sản vừa tạo ra nhu cầu liên kết tại vùng nguyên liệu.

Nhà nước cần phát huy vai trò trọng tài. Nhà nước tham gia vào mối liên kết với vai trò hỗ trợ, điều phối thông qua các chính sách khuyến khích và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, đồng thời là người kiểm tra, giám sát và bảo đảm tính pháp lý cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên. Do đó có thể nói rằng, Nhà nước đóng vai trò “trọng tài” trong quá trình liên kết “bốn nhà”. Đồng thời, Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp phải luôn sâu sát với nông dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu sản xuất của nông dân để có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn và bao tiêu sản phẩm hàng hóa của nông dân. Từ đó mới giúp nông dân đầu tư phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của thị trường và doanh nghiệp. Ngoài ra, do các doanh nghiệp còn thiếu vốn trong sản xuất, Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về đất đai, đầu tư, nguồn vốn từ ngân hàng... như đã quy định trong Quyết định 80. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần hướng dẫn doanh nghiệp, nông dân ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết khi xảy ra tranh chấp.

Đa số các doanh nghiệp ở tỉnh Trà Vinh có qui mô nhỏ, vốn ít, không có

tiềm năng để

xây dựng kho trữ

hàng, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, quảng bá

thương hiệu, hậu mãi…ở thị trường nước ngoài. Tỉnh Trà Vinh cần có những hỗ

trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản về những vấn đề trên, có

chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia cho các mặt hàng nông sản chủ lực.

Tỉnh cũng cần hỗ trợ, vận động, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh nông sản hình thành những tập đoàn công ty lớn, chuyên ngành hoặc các hiệp hội để có thể nghiên cứu nắm bắt được đầy đủ thông tin về thị trường trong và ngoài nước, những kỹ thuật sản xuất hiện đại, cùng với khả năng đầu tư máy móc thiết bị chế biến để tạo đầu ra ổn định, nâng cao hiệu quả sản xuất nông sản; đồng


thời cũng tránh được kiểu tranh mua giành bán trên thị trường trong và ngoài nước. Các tập đoàn, các công ty lớn, các hiệp hội ngành hàng còn có thể là các đầu mối quan trọng để Nhà nước điều tiết cung cầu - giá cả hàng nông sản khi có biến động trên thị trường, đồng thời tập trung sức mạnh thương thảo trên thị trường đầy biến động.

Bên cạnh đó, Tỉnh Trà Vinh cần hoàn thiện những chính sách hỗ trợ nông sản, chính sách đất đai: nâng cao mức hạn điền để có thể tích tụ tập trung đất đai tạo vùng sản xuất qui mô lớn.

3.8. Cơ sở đề xuất giải pháp và mô hình liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.

Từ thực trạng liên kết bốn nhà ở tỉnh Trà Vinh, để có cơ sở đề xuất giải pháp và mô hình liên kết cần phải biết được những điểm mạnh, yếu, cơ hội cũng như thách thức trong mối liên kết này, phân tích ma trận SWOT là cách làm hiệu quả. Phương pháp này dựa trên kết hợp giữa các điểm mạnh (S-Stregnth) và cơ hội (O – Opportunity) để đưa ra các giải pháp mang tính công kích; kết hợp với các điểm mạnh với đe dọa (T-Threat) để đưa ra các giải pháp mang tính thích ứng; kết hợp các điểm yếu (W-weak) với cơ hội để đưa ra các giải pháp mang tính điều chỉnh; kết hợp các yếu tố với đe dọa để đưa ra các giải pháp mang tính phòng thủ.



O1: Thay đổi trong

tiêu dùng theo hướng chất lượng cao, đa dạng hơn về chủng loại và mẫu mã.

O2: Cạnh tranh về giá cả và chất lượng trở nên gay gắt hơn.

O3: Các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh vùng nguyên liệu trong nước.

O4: Chính sách hỗ trợ kinh tế hợp tác cho người sản xuất và hình

thành các hiệp hội các

T1: Năng lực vốn

của các tổ chức kinh tế hợp tác của người sản xuất quá thấp.

T2: Chưa có mô hình liên kết hiệu quả.

T3: Cộng tác giữa nhà khoa học với doanh nghiệp chưa cao.

T4: Thương lái nước ngoài mua nguyên liệu bằng con đường tiểu ngạch.

T5: Nhận thức sai

về nhu cầu thị trường đối

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Nghiên cứu - ứng dụng mô hình liên kết bốn nhà vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh - 14



doanh nghiệp trong nước.

O5: Chương trình xây dựng xã nông thôn mới

với chất lượng sản phẩm.

S1: Doanh nghiệp

thiếu nguyên liệu đầu vào.

S2: Khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp được nâng cao.

S3: Hành vi của nông dân thay đổi theo hướng từ “mạo hiểm” sang “ổn định”.

S4: nông dân thiếu vốn, thông tin thị trường và kỷ thuật hạn chế.

S5: Mối quan tâm của Nhà nước.

S6: Mối quan tâm của Chính quyền địa phương.

S7: Nhà khoa học thực hiện nhiều hoạt động thúc đẩy liên kết.

S8: Mối quan hệ tốt giữa nông dân và nhà

khoa học.

S1,5,6,7 O5: Chính

quyền địa phương kết hợp với các nhà khoa học nghiên cứu lồng ghép chương trình xây dựng xã nông thôn mới vào liên kết “4 nhà”. S2,5,6 O1,2,3,4: Nhà nước tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, thông qua hỗ trợ các hoạt động tiếp thị và cung cấp thông tin thị trường cho các hiệp hội.

S1 O1,2,5: Các nhà khoa học tăng cường công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho người sản xuất.

S1 T1: Tận dụng

sự hỗ trợ vốn của doanh nghiệp cho các tổ chức kinh tế hợp tác.

S7,8 T3: Nhà khoa học nỗ lực hơn trong việc tiếp cận với các doanh nghiệp.

S5,6,7,8 T2: Nhà

nước kết hợp với nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu khoa học để giúp tìm ra mô hình liên kết “4 nhà”.

S3,5,6,7,8 T4,5:

Nhà nước và nhà khoa học tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và năng lực thị trường cho người sản xuất.

W1: Tính chia sẽ

lợi nhuận, lợi ích thấp giữa doanh nghiệp và nông dân.

W2: Nhận thức thị

trường của người sản

W2,3,4 O1,2,4:

Chính quyền địa phương kết hợp với các nhà khoa học tăng cường các khóa huấn luyện nâng cao năng lực sản xuất, quản lý và

W1,5 T1: Chính quyền địa phương và lãnh đạo các tổ chức kinh tế hợp tác tăng cường huy động vốn từ bản thân các

xã viên.


xuất còn hạn chế.

W3: Năng lực và quy mô sản xuất của người sản xuất và các tổ chức kinh tế hợp tác chưa đủ lớn.

W4: Kiến thức thị trường và năng lực quản lý của các tổ chức kinh tế hợp tác còn hạn chế.

W5: Tính chất hợp tác của các tổ chức nông dân còn hạn chế.

W6: Năng lực thị trường và tính năng động của cán bộ địa phương còn hạn chế.

W7: Các nhà khoa học chưa thật sự dấn thân để thúc đẩy mối liên kết.

thị trường cho các tổ chức

kinh tế hợp tác.

W5 O4: Chính quyền địa phương nỗ lực hơn trong việc vận động các tổ chức kinh tế hợp tác nâng cao chất lượng hợp tác theo chiều sâu.

W6 O4,5: Thông qua chương trình xây dựng nông thôn mới chính quyền địa phương kết hợp với các nhà khoa học huấn luyện nâng cao năng lực thị trường cho cán bộ địa phương.

W1 O2,3: Nhà

nước cần đưa ra các chính sách để điều tiết lợi nhuận, lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp.

W7 O2,5: Nhà

nước tăng cường sự cộng tác với các nhà khoa học trong việc xây dựng xã hội nông thôn mới và nghiên cứu các chính sách vĩ mô, phục vụ cho việc thúc đẩy liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp.

W7 T3: Nhà nước

hỗ trợ cho các nhà khoa học trong việc tiếp cận với các nguồn thông tin từ doanh nghiệp để đưa ra các kết quả nghiên cứu có tính chính xác cao.

W7 T4: Nhà nước hỗ trợ cho các nhà khoa học thực hiện các nghiên cứu khoa học để cung cấp thông tin cho cả người sản xuất và doanh nghiệp về hoạt động thị trường của các thương nhân nước ngoài.


Kết luận chương 3:


Kết quả phân tích về độ sâu liên kết và hiệu quả liên kết cho thấy, liên kết giữa doanh nghiệp và nông hộ ở Trà Vinh còn khá yếu kém, chỉ tồn tại ở khâu bán sản phẩm đầu vào cho nông hộ, hoặc mua sản phẩm của nông hộ ở khu vực xung quanh doanh nghiệp hoặc các nhà máy của doanh nghiệp. Điều này càng làm tăng tính phổ biến của mô hình trung gian. Do đó, việc tồn tại mô hình trung gian là không thể tránh khỏi. Để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của nông hộ, cần phải giải quyết một số vấn đề từ phía doanh nghiệp và hộ nông dân:

Vdoanh nghip, hiện tại, chỉ có vài doanh nghiệp chế biến lúa gạo và thu mua thu mua thủy hải sản, các doanh nghiệp này đều tập trung ở thị xã Trà Vinh, đây lại là một dạng chủ thể trung gian. Các hộ nông dân cũng rất mong muốn được bán sản phẩm trực tiếp cho doanh nghiệp để được giá cao nhưng thực tế không có doanh nghiệp ở địa phương, chi phí vận chuyển cao do khoảng cách xa sẽ không thu hút được nông hộ bán sản phẩm trực tiếp cho doanh nghiệp. Về trung gian mua bán, các khâu từ trồng trọt đến thu mua và chế biến chỉ có sự cạnh tranh thu mua giữa các đối tác trung gian, hoặc chỉ có các liên kết ngang trong mỗi nhóm đối tượng.

Vnông dân, thực tế cho thấy, một số nông hộ trong vùng có nhà máy chế biến nông sản phẩm lại không muốn bán sản phẩm cho các cơ sở này vì nông hộ muốn được chọn lựa đối tác bán sản phẩm trong những lúc giá cao. Hơn nữa, ký kết hợp đồng sẽ giúp giảm rủi ro cho hộ nông dân khi giá xuống và giảm rủi ro cho doanh nghiệp khi giá lên, đồng thời số lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo tiêu thụ nhưng việc mua bán giữa hộ và các đối tác trung gian hoàn toàn không được thỏa thuận bằng hợp đồng, và cũng không được thỏa thuận dựa trên niềm tin. Bởi vì, theo nhận định từ cả hai bên, việc mua bán được dựa trên cơ sở thuận mua vừa bán, các bên cũng sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn đối tác của mình.

Mối liên kết giữa nông hộ, doanh nghiệp, trung gian không chặt chẽ và

không bền vững. Do đó, thực tế để tạo ra sự liên kết dọc và trực tiếp trong ngành lúa là rất khó khăn, để khắc phục một số vấn đề trên, cần phải:

Tiếp tục duy trì các hợp tác xã hoạt động hiệu quả trong những vùng

chuyên canh, và nhân rộng mô hình này cho một số khu vực tương tự, phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương.

Xem tất cả 156 trang.

Ngày đăng: 04/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí