thể. Đây chính là cách quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai, sông hồ một cách hiệu quả và có giá trị kinh tế cao mà mối liên kết này có ảnh hưởng đến. Sự màu
mỡ của đất đai sẽ vẫn được giữ lại và bảo đảm cho mùa vụ sau không thiếu
nguồn dinh dưỡng, nông dân canh tác theo phương pháp quy chuẩn của doanh nghiệp hướng dẫn thì không những giữ được đất, nguồn nước không bị ô nhiễm mà còn giữ được cây giống ổn định năng suất và chất lượng cao.
Cải thiện giáo dục và y tế cộng đồng
Giáo dục và chăm sóc sức khỏe gia đình được nâng cao. Hệ thống giáo dục và hệ thống y tế của địa phương được nâng cấp, hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng được quan tâm hơn.
Để nắm được kiến thức canh tác theo kỹ thuật mới đòi hỏi người nông dân
phải thực hành và được chuyển giao công nghệ từ các chuyên gia của doanh
nghiệp liên kết hoặc từ các lớp hướng dẫn khuyến nông của chính quyền địa
phương hỗ trợ đã giúp đào tạo nâng cao kiến thức cho người nông dân. Để hình thành các vùng chuyên canh theo mục tiêu phát triển, tỉnh đã thực hiện công tác chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ thông qua các lớp hướng dẫn kỹ thuật và phương pháp sản xuất để phát triển các vùng nguyên liệu bền vững, tạo ra các sản phẩm đồng đều về mẫu mã và chất lượng. Trong năm qua, tỉnh đã đào tạo nghề cho hơn 6.400 lao động từ 25 cơ sở dạy nghề và tập huấn cho hơn 200 hộ nông dân. Gặp gỡ chuyên gia và tiếp xúc với nhiều tài liệu kỹ thuật từ nước ngoài đòi hỏi trình độ của người dân phải được nâng cao. Vì vậy, ngành giáo dục địa phương được mở rộng và phát triển hơn nhờ vào nhu cầu được đào tạo ngày càng cao của các hộ nông dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Các Nội Dung Liên Kết “Bốn Nhà” Thực Hiện Trong Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh.
- Phân Tích Vai Trò, Mức Độ, Cơ Chế Phát Triển Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh.
- Hiệu Quả Liên Kết “Bốn Nhà” Trong Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh
- Cơ Sở Đề Xuất Giải Pháp Và Mô Hình Liên Kết “Bốn Nhà” Trong Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh.
- Định Dạng Mô Hình Liên Kết Trong Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Trà Vinh Yêu Cầu Đối Với Mô Hình
- Tạo Lập, Phát Triển Hoạt Động Liên Kết “ Bốn Nhà” Trong Sản Xuất Nông Nghiệp, Nông Thôn Tỉnh Trà Vinh
Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.
Đời sống người dân được nâng cao đã nâng cấp yêu cầu về chăm sóc sức khỏe phải cao hơn, do đó các trạm y tế xã, bệnh viện địa phương phải được trang bị các trang thiết bị y tế tiên tiến hơn, bác sĩ tăng cường cho tuyến cơ sở. Sức khỏe cộng đồng được quan tâm hơn, nhiều chương trình phòng bệnh và chăm sóc sực khỏe cho trẻ em được tổ chức thực hiện gần với tuyến cơ sở hơn, hệ thống cấp nước sạch đã tới được trên 5.500 hộ dân, chiếm 83% số hộ nông dân trên toàn tỉnh trong năm 2009.
Tóm lại, mối liên kết giữa doanh nghiệp và hộ nông dân không những giúp mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho người nông dân mà còn tạo cho môi trường kinh tế vĩ mô của địa phương năng động và hấp dẫn hơn nhằm thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư vào Trà Vinh. Ngoài ra, nông dân sản xuất, canh tác theo tiêu chuẩn
GAP cũng gớp phần bảo vệ môi trường tốt hơn. Người dân ở vùng nông thôn
cũng ý thức hơn về giáo dục gia đình và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, qua đó góp phần nâng cấp hệ thống giáo dục và y tế của địa phương. Nhiều chương trình hỗ trợ nông dân được mở ra nhằm đáp ứng yêu cầu canh tác, sản xuất có sự tham gia của nhà nước đã giúp cho bộ máy chính quyền địa phương năng động và hoạt động hiệu quả hơn. Kết quả cho các yếu tố này là chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Trà Vinh CPI luôn ở tốp đầu trong những năm gần đây.
3.7. Liên kết “bốn nhà” ở tỉnh Trà Vinh, thuận lợi, thách thức và cơ hội
3.7.1. Sự cần thiết của liên kết “bốn nhà” ở tỉnh Trà Vinh
Ngành kinh tế nông nghiệp của tỉnh Trà Vinh đã có những bước phát triển vượt bậc; nhiều sản phẩm nông nghiệp đã trở thành thế mạnh của Trà Vinh như: tôm, cá…Đời sống của người nông dân cũng từng bước được cải thiện. Tuy vậy, nông nghiệp Trà Vinh vẫn đang đối mặt với rất nhiều thách thức, nhất là trong quá trình hội nhập WTO hiện nay. Sản xuất nông nghiệp nhìn chung vẫn là kiểu sản xuất nhỏ, manh mún thiếu quy hoạch và định hướng. Người nông dân vẫn đang loay hoay với những biến động của thị trường thế giới, hết trồng lại chặt theo sự lên xuống của giá cả thị trường, với dịch bệnh và thiên tai bão lũ; đời sống chưa được ổn định, đảm bảo.
Ngành sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, dịch bệnh. Do vậy, thị trường nông sản cũng có những qui luật đặc thù riêng phù hợp với cung cầu và giá cả hàng nông sản. Do phần lớn nông dân có trình độ thấp, phương thức canh tác lạc lậu nên rất khó thích ứng với cơ chế thị trường với sự biến động khó lường về cung cầu, giá cả.
Tiêu thụ hàng nông sản vẫn là vấn đề nan giải đối với đa số nông dân. Bài toán nuôi con gì? trồng cây gì? Số lượng chất lượng ra sao? Bán ở thị trường nào là bài toán khó đối với nông dân trong suốt thời gian qua và đến nay, họ vẫn loay hoay không giải được! Nhược điểm chính là khó khăn lớn nhất trên con đường phát triển sản xuất hàng hóa lớn nông nghiệp. Không có một hệ thống dịch vụ sản xuất nào có thể vượt qua rủi ro và bù đắp nổi chi phí giao dịch để tiếp cận với hộ nông dân. Những hộ tiểu nông ở tỉnh Trà Vinh, trung bình chỉ có 0,6 ha lại chia thành nhiều mảnh đất nhỏ không thể áp dụng cơ giới hóa và thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất hàng hóa lớn, cũng không thể tạo nên nguồn hàng hóa ổn định, đồng nhất, rõ ràng về xuất xứ, bảo đảm về chất lượng
cho nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Mặt khác, quá trình toàn cầu hóa đang có những “luật chơi” không công bằng, bất lợi cho nông nghiệp của các nước đang phát triển như Việt Nam nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng. Nông dân nước nghèo không chỉ phải cạnh tranh với nông dân nước giầu mà trước hết còn phải vượt qua mức trợ cấp to lớn của chính phủ các nước này. Trung bình nông dân ở 30 nước thuộc nhóm OECD hàng năm nhận hỗ trợ bằng 30% tổng giá trị nông nghiệp của họ. Vì thế, cuộc cạnh tranh giữa những nông dân nhỏ Việt Nam với hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện đại, qui mô lớn, đựơc tổ chức chặt chẽ và được trợ cấp dồi dào là không cân sức. Người nông dân lại càng không có khả năng thương lượng, hợp tác làm ăn với hệ thống các doanh nghiệp nước ngoài giầu có về vốn liếng, mạnh về tổ chức, được kết nối với các tập đoàn gia quốc gia hùng mạnh để đưa các hàng nông nghiệp ra thị trường thế giới. Do vậy, mặc dù thị trường quốc tế được rộng mở, nhưng người nông dân khó có thể tự mình tham gia vào “sân chơi” chung ấy với kiểu sản xuất nhỏ lẻ manh mún và tự phát.
Để giải quyết tất cả những vấn đề trên và hỗ trợ cho nông dân, cần có sự “nhập cuộc” của nhiều chủ thể: doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản, các nhà khoa học và sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Có như vậy mới tạo ra được một hợp lực đủ mạnh để hàng nông sản Việt Nam có chỗ đứng bền vững trên thị trường quốc tế và ngay trên thị trường nội địa. Do vậy, sự liên kết “bốn nhà” là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển sản xuất nông sản hàng hóa hiện nay.
3.7.2. Liên kết “bốn nhà” ở Trà Vinh còn bộc lộ những hạn chế
- Chính sách về liên kết chưa hoàn thiện, đồng bộ.
- Việc tổ chức thực hiện về quán triệt chủ trương, chính sách liên kết; việc tổ chức tạo sự gắn kết các nhà…chưa tốt. Do vậy, các Nhà chưa có nhận thức, hiểu đầy đủ về chủ trương, chính sách liên kết.
-Cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi…) còn hạn chế, gây khó khăn và cản trở phát triển sản xuất kinh doanh của các Nhà, cũng như tạo điều kiện gắn kết các Nhà với nhau.
- Công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Trình độ học vấn, chuyên môn của các Nhà còn thấp, hạn chế (kể cả nhà khoa học ở địa phương, người trực tiếp gắn với sản xuất kinh doanh nhà nông)
- Mối liên kết chưa thực sự bền chặt một phần do nguyên nhân giữa các Nhà chưa có sự tin tưởng với nhau.
- Trình độ, nguồn lực của các Nhà còn nhiều hạn chế, khó khăn.
Đối với Nhà nông
-Trình độ học vấn, chuyên môn còn rất hạn chế.
- Nguồn lực còn hạn chế (nhất là quy mô đất đai), do đó sản xuất chủ yếu chủ yếu có quy mô nhỏ, manh mún từ đó hạn chế đến sự liên kết với các Nhà (nhất là liên kết chính thống).
- Nguồn lực về vốn, tư liệu sản xuất cơ bản còn hạn chế, lạc hậu từ đó gây khó khăn cho sự tham gia liên kết các nhà.
- Sự trợ giúp, hỗ trợ từ các cấp, các ngành, các Nhà khác còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đối với Nhà khoa học
-Trình độ của Nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật ở cơ sở vẫn còn hạn chế.
- Vốn đầu tư cho khoa học nói chung, nghiên cứu và triển khai chuyển giao KHKT còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
- Trang thiết bị còn phục vụ cho nghiên cứu khoa học còn thiếu và lạc hậu.
- Chế độ, chính sách, sự hỗ trợ, trợ giúp đối với Nhà khoa học còn thấp; chưa có sự khuyến khích, hỗ trợ Nhà khoa học trong việc tham gia liên kết với các Nhà (lợi ích của Nhà khoa học hầu hết là từ kinh phí các chương trình, đề tài, dự án).
Đối với Doanh nghiệp
-Trình độ, năng lực chuyên môn (nhất là cán bộ kỹ thuật) vẫn còn hạn chế.
- Nguồn lực về vốn còn hạn chế, khó khăn ảnh hưởng đến năng lực sản xuất kinh doanh, cũng như mở rộng và tăng cường liên kết với các Nhà.
- Khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm, từ đó ảnh hưởng đến sự liên kết của Doanh nghiệp với Nhà nông.
- Chính sách hỗ trợ, trợ giúp của các cấp, các ngành…chưa đáp ứng nhu cầu của Doanh nghiệp.
Hạn chế cơ bản nhất trong liên kết bốn nhà ở Trà Vinh là sự chia sẻ lợi nhuận giữa người sản xuất và doanh nghiệp, nông dân không bán hoặc chỉ bán một phần sản phẩm cho doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp trì trệ trong việc mua sản phẩm của nông dân khi giá cả xuống. Điều này đã tạo ra sự thiếu lòng tin lẫn nhau nên sự e dè trong liên kết là điều tất yếu.
Nhận thức thị trường của nông dân còn hạn chế, nông dân chỉ tập trung vào sản xuất và bán hàng. Vì vậy, họ muốn làm thế nào bán hết sản phẩm càng nhanh càng tốt mà chưa nghĩ đến việc tạo ra những sản phẩm có chất lượng để tạo thị trường bền vững, lâu dài. Bên cạnh đó, năng lực và quy mô sản xuất của nông dân và các tổ chức kinh tế hợp tác còn nhiều hạn chế. Đây chính là vấn đề khó khăn của người nông dân, bởi vì vị thế trên thị trường của người nông dân luôn ở thế bất lợi so với người mua - doanh nghiệp. Với lượng sản phẩm nhỏ nên không kích thích người mua liên kết do chi phí thu mua cao. Hơn nữa, do năng lực sản xuất của nông dân hạn chế nên thường tạo ra sản phẩm với chất lượng không cao nên chi phí trung gian sẽ tăng lên. Mặc dù dưới sự hỗ trợ của Tỉnh trong việc phát triển các tổ chức kinh tế hợp tác nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất nhưng chất lượng hợp tác chỉ mới dừng lại ở dạng sơ khai, chủ yếu là hỗ trợ lẫn nhau về kỹ thuật sản xuất. Trong khi đó, liên kết với nhau trong góp vốn sản xuất,
mở rộng diện tích, cùng lên kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, hợp tác tìm
kiếm thị trường đề tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, cho nên năng lực sản xuất chưa được phát huy, nên làm hạn chế khả năng liên kết với doanh nghiệp.
Ở tỉnh Trà Vinh, cán bộ địa phương mặc dù có quan tâm và nhiệt huyết cho vấn đề liên kết. Tuy nhiên, năng lực thị trường và tính năng động trong hỗ trợ thực hiện liên kết còn hạn chế. Hơn nữa, Chính quyền địa phương hầu như thiếu khâu cung cấp thông tin cho cả nông dân lẫn doanh nghiệp, cũng như chủ động mời gọi doanh nghiệp đến với địa phương. Điều này làm giảm động lực liên kết của doanh nghiệp với nông dân.
Đối với nhà khoa học ở Trà vinh còn thiếu quá nhiều, Tỉnh đã chủ động kêu gọi các nhà khoa học ở các Trường, Viện…, nhưng sự vấn thân vào việc nghiên cứu và thúc đẩy mối liên kết này, tuy nhiên, có rất nhiều lý do chủ quan cũng như khách quan làm cho các nhà khoa học không sẵn lòng hợp tác để nghiên cứu, đó là thủ tục thanh, quyết toán quá phức tạp.
Khối lượng nông sản được ký kết hợp đồng tiêu thụ ở Trà Vinh còn chiếm tỷ lệ rất thấp. Quyết định 80 đã đề ra mục tiêu: mở rộng phương thức ký hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá để đến năm 2010 có trên 50% sản lượng nông sản hàng hoá của một số ngành sản xuất hàng hoá lớn được tiêu thụ thông qua hợp đồng. Thế nhưng, đến nay, mục tiêu 50% sản lượng nông sản được tiêu thụ thông qua hợp đồng là nhiệm vụ khó khả thi.
Tình trạng phá vỡ hợp đồng còn xảy ra khá nhiều đối với hầu hết các loại nông sản hàng hoá. Gần đây, ở tỉnh Trà Vinh có hiện tượng doanh nghiệp bội tín, nông dân lỗ nặng, 153 nông dân ở xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè hợp tác sản xuất với công ty lúa giống 9 Táo đóng tại xã Sông Lộc, huyện Châu Thành, theo hợp đồng, công ty bán giống cho nông dân với giá 11.000đ/kg nếu trả tiền trước và
13.000 đ/kg nếu phải trả sau. Đồng thời, công ty hứa mua lại lúa của dân giá 5.200 đ/kg. Nhưng do giống của công ty bị lẫn tạp nhiều nên tốn công khử và không bảo đảm chất lượng, công ty chỉ mua lại theo giá thóc thịt 2.800 - 2.900 đ/kg. Tình trạng ép cấp, ép giá của các doanh nghiệp thu mua hàng nông sản diễn ra phổ biến làm cho nông dân sản xuất bị thiệt thòi. Đối với hộ nông dân, chủ trang trại, hiện tượng không thực hiện hợp đồng cũng diễn ra khá phổ biến ở hầu hết các loại nông sản hàng hoá, nhất là khi thị trường có biến động về giá cả hàng nông sản.
Hợp đồng tiêu thụ nông sản thực hiện không đều giữa các vùng, các địa phương trong tỉnh Trà Vinh, chủ yếu diễn ra với một số nông sản xuất khẩu chủ lực và ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Còn các vùng khác về cơ bản tiêu thụ hàng nông sản vẫn diễn ra tự phát thông qua thương lái, chủ nậu, chủ vựa, chợ nông thôn nên không ổn định.
Chưa hình thành mô hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ cho từng hàng nông sản, từng vùng sản xuất nên chưa có cơ sở để tổng kết nhân rộng, có thể nhận thấy một điều từ thực tế ở tỉnh Trà Vinh: hầu như việc liên kết giữa các chủ thể đều do thị trường quyết định.
Tổ chức khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên kết. Tuy nhiên cho đến nay, số đông các cơ quan khoa học ở Trà Vinh vẫn lúng túng khi thực hiện liên kết “bốn nhà”. Vẫn còn thiếu vắng các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu mạnh dạn chủ động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong việc triển khai các chương trình, dự án nghiên cứu.
Có rất nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan dẫn đến những hạn chế trên. Có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Các doanh nghiệp và đặc biệt là hộ nông dân chưa nhận thức đúng về sự cần thiết và lợi ích của liên kết kinh tế trong phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Việc ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trong thời gian qua còn mang nhiều sắc thái của việc giải quyết chính sách xã hội, chưa phải là một đòn bẩy kinh tế trong kinh tế thị trường. Đó là chưa kể đến chuyện “hình thức” của hợp đồng mà tỉnh chưa quản lý được như
doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ nông sản để hưởng một số chính sách “ưu đãi” của địa phương. Một số doanh nghiệp tham gia ký hợp đồng là nhằm thực hiện chủ trương của Nhà nước, của tỉnh, nên việc ký hợp đồng mang tính gò ép, chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế của quá trình phát triển kinh tế, từ lợi ích kinh tế nên việc gắn kết với người sản xuất còn rời rạc, thiếu chặt chẽ.
Các ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm giữa các bên trong hợp đồng chưa
được pháp lý hóa. Phần lớn các hợp đồng giữa doanh nghiệp và hộ nông dân đều không có các điều khoản ràng buộc; thỏa thuận giữa các bên với nhau mang tính chất như một bản ghi nhớ, chưa phải là hợp đồng kinh tế. Do hạn chế về trình độ học vấn và tư tưởng ham lợi trước mắt, không tính toán được chiến lược lâu dài cũng như do nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật nên “Nhà nông” rất dễ vi phạm hợp đồng trong quá trình liên kết. Họ chưa quan tâm thực hiện đúng các điều khoản đã cam kết dẫn đến số lượng, chất lượng sản phẩm và thời hạn giao nộp sản phẩm hàng hóa không tuân thủ theo hợp đồng. Tình trạng phổ biến ở Trà Vinh là nhiều hộ nông dân mặc dù đã ký hợp đồng, nhận đầu tư ứng trước về vốn, vật tư kỹ thuật của doanh nghiệp, nhưng khi giá sản phẩm trên thị trường biến động, họ bán sản phẩm cho người khác, đơn vị khác với giá cao hơn hoặc cố tình bán sản phẩm cho đơn vị khác để lẩn tránh việc thanh toán các khoản đã nhận đầu tư của doanh nghiệp, không nghĩ đến trách nhiệm với hợp đồng. Khi thị trường rớt giá, họ lại quay về bán sản phẩm cho doanh nghiệp đã ký hợp đồng với mình. Về phía doanh nghiệp, cũng có không ít doanh nghiệp chưa thật sự tôn trọng hợp đồng đã ký, không bảo đảm cả về số lượng và chất lượng vật tư cung ứng cho người sản xuất. Do chưa có những ràng buộc chặt chẽ mang tính pháp lý nên việc xử lý những vi phạm hợp đồng là rất khó khăn và chưa có giải pháp hữu hiệu.
Do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, doanh nghiệp phải ký các hợp đồng với hộ nông dân với một quy mô chủ thể quá rộng (hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp hiện nay chủ yếu là hộ gia đình, doanh nghiệp rất khó khi phải ký hợp đồng với từng hộ nông dân nhỏ lẻ). Khi có sự cố hợp đồng xảy ra rất khó đàm phán thương lượng với chủ thể nông dân đông như vậy. Mặt khác với một tín hiệu nào đó (như tín hiệu giá cả thị trường) thì sẽ tạo ra sự lan truyền trong số đông rất nhanh và dễ dẫn đến áp lực cho chủ thể doanh nghiệp. Đó là chưa kể doanh nghiệp sẽ phải mất rất nhiều nhân lực và thời gian để đến từng hộ nông dân ký hợp đồng. Chính vì vậy, với trình độ tích tụ và tập trung sản xuất nông
nghiệp như hiện nay, việc ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp và các hộ nông dân là kém khả thi.
Doanh nghiệp ở tỉnh Trà vinh còn yếu và những doanh nghiệp nhỏ, chưa đóng vai trò trung tâm của mối liên kết. Trong liên kết “ bốn nhà”, vai trò của doanh nghiệp rất quan trọng: doanh nghiệp là người chủ động ký kết hợp đồng với nông dân và cả các nhà khoa học; hướng dẫn giúp đỡ nhà nông trong việc định hướng sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật về sản xuất sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, vốn , vật tư, phân bón…Để làm được việc đó doanh nghiệp phải có năng lực sản xuất đủ mạnh. Tuy nhiên các doanh nghiệp kinh doanh nông sản hiện nay còn nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, mạng lưới thu gom và phân phối hàng nông sản. Bên cạnh đó, còn có hiện tượng một số doanh nghiệp đã lạm dụng độc quyền để ép giá nông dân, chưa quan tâm đầu tư cho vùng nguyên liệu.
Do trình độ sản xuất, tập quán sản xuất lạc hậu, chưa theo kịp yêu cầu sản xuất hàng hóa, tiềm lực sản xuất của hộ nông dân còn thấp, thiếu thông tin thị trường, thiếu các kiến thức về pháp luật nên phần lớn nông phẩm hàng hóa có chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, chưa có thương hiệu; giá cả và thị trường thường xuyên biến động nên việc xác định giá tiêu thụ nông sản khi ký kết hợp đồng là rất khó khăn. Hơn nữa nông dân ở Trà Vinh còn mang nặng tâm lý tiểu nông, chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà thiếu tầm nhìn xa, do vậy rất dễ vi phạm hợp đồng khi giá cả thị trường có nhiều biến động.
Thiếu một cơ chế đảm bảo lợi ích hài hòa cho các chủ thể tham gia liên kết, đặc biệt là đối với các nhà khoa học. Đã có không ít trường hợp các nhà khoa học đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, chế biến sản phẩm, làm lợi hàng chục tỷ đồng, nhưng phần được hưởng của họ hầu như không đáng kể.
Những qui định bất hợp lý của Nhà nước trong cơ chế về giá khi thực thi Quyết định 80/2002/QĐ-TTg. Điểm 8, điều 5 của Quyết định này quy định giá sàn trong quan hệ mua bán giữa nhà nông và doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải mua nông sản của nhà nông theo giá sàn khi giá thị trường xuống thấp hơn giá sàn, còn khi giá thị trường tăng cao hơn giá sàn thì doanh nghiệp cũng phải mua theo giá thị trường. Điều gì sẽ xảy ra khi thực hiện theo cơ chế giá sàn này: khi giá thị trường xuống thấp, nhà nông bán sản phẩm cho doanh nghiệp nhưng khi giá tăng cao, nhà nông vì lợi ích trước mắt lại bán cho bất kỳ ai có giá cao hơn. Doanh nghiệp cũng không thể mua theo giá này, hay nói cách khác buộc phải vi