2.3.4. Chính sách du lịch
Chính quyền địa phương có sự quan tâm đến sự phát triển du lịch, đặc biệt là phát triển du lịch dựa vào tài nguyên sẵn có: văn hóa Khmer Nam bộ. Tuy nhiên, từ văn bản chỉ đạo để đến hành động thực tiễn còn gặp nhiều thách thức. Thứ nhất, về chính sách mời gọi đầu tư theo mục tiêu “xã hội hóa phát triển du lịch”, làm thế nào để nhà đầu tư quan tâm và đầu tư vốn cho du lịch Trà Vinh nói chung và du lịch văn hóa Khmer Nam bộ nói riêng. Vấn đề mà các nhà đầu tư và người dân Trà Vinh quan tâm không kém đó chính là làm thế nào để cân bằng lợi ích giữa nhà đầu tư – chủ thể văn hóa Khmer – chính quyền địa phương và người dân bản địa.
Thứ hai, nguồn nhân lực du lịch của tỉnh đang thiếu trầm trọng về cả chất và lượng do nhiều yếu tố. Trà Vinh là một tỉnh đi lên từ nền nông nghiệp lúa nước, nên trình độ dân trí và kiến thức về du lịch còn thấp, họ không cho con cháu mình làm du lịch. Mặc khác, người dân Khmer quen với ruộng đồng, việc làm du lịch đối với họ rất xa lạ và hoàn toàn khó khăn do họ có quan niệm học cho biết con chữ rồi đi làm kiếm tiền. Vì vậy, lực lượng thuyết minh viên tại địa phương là người Khmer rất hiếm, đa phần là người Kinh. Để thay đổi suy nghĩ và tập quán chọn nghề của người dân là một quá trình lâu dài, chính sách khuyến khích và đãi ngộ nhân tài trong ngành du lịch cũng là một quyết sách tốt cho việc đồng bộ hóa nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Trà Vinh trong tương lai.
Thứ ba, làm du lịch dựa vào tiềm năng văn hóa Khmer Nam bộ là một hoạt động không khó nhưng cần sự hỗ trợ đồng lòng từ nhiều ngành, nhiều cấp. Kinh doanh du lịch để không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc là một việc làm không dễ, nhưng hiện tại các nhà làm du lịch từ Nhà nước đến địa phương vẫn chưa có một lộ trình cụ thể và thực tế cho đối tượng du lịch “văn hóa Khmer Nam bộ” tại Trà Vinh.
2.4. Các tài nguyên văn hóa Khmer có tiềm năng khai thác du lịch tại Trà Vinh và hiện trạng
Trà Vinh có nhiều tài nguyên nhân văn về văn hóa Khmer Nam bộ, hầu hết đều được đánh giá là có tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy nhiên, theo tiêu chí đánh giá điểm du lịch (chương II) thì các địa điểm có tài nguyên tiềm năng nhưng chưa đủ điều kiện, hoặc chưa thể phát triển thành điểm đến du lịch hoàn chỉnh để
tiếp đón khách tham quan. Tại các điểm tài nguyên đã được khai thác chỉ nằm ở mức thấp, hoặc ở giai đoạn khám phá trong vòng đời của một điểm du lịch, cụ thể:
Tài nguyên Chùa Khmer (Phật giáo, tông phái Tiểu thừa): Tính đến năm 2017, toàn tỉnh Trà Vinh có 142 ngôi chùa Khmer, trong đó số chùa được khách đến tham quan khá ít, gồm: chùa Âng, chùa Hang, chùa Nodol, chùa Vàm Rây và một vài chùa lớn tại các huyện. Các ngôi chùa ở đây vẫn chưa được xem là điểm du lịch do hoạt động phục vụ khách du lịch chủ yếu là tham quan, chụp ảnh. Đối tượng đón tiếp chủ yếu là người dân địa phương, khách vãng lai của tỉnh và một số tỉnh lân cận, số ít khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh và khách nước ngoài. Lý do: Các điểm chùa đều thiếu thông tin giới thiệu để giúp khách hiểu về nét đặc sắc nơi đây, không có thuyết minh tại điểm, không có dịch vụ hỗ trợ, các chùa có kiến trúc tương đối giống nhau. Hơn nữa, tại chùa không có bảng thông tin và bảng chỉ dẫn, hoặc chùa có trang bị nhưng đa phần bằng tiếng Khmer (chùa Âng, chùa Hang,…). Mặc khác, người dân địa phương và quanh vùng tỏ ra khá thờ ơ với khách tham quan, số ít người dân không có thông tin về chùa (người dân từ nơi khác đến, không biết tiếng Khmer và không hiểu văn hóa Khmer).
Hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật (các điệu lâm thôn, răm vông, xaravan, Dù kê, Dì kê, Rô băm, múa tôn giáo,…). Trà Vinh là một trong số các tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống (chiếm 2/3 tổng dân số toàn tỉnh), tuy nhiên theo thống kê của Cục biểu diễn Nghệ thuật, trên khắp đất nước Việt Nam nói chung và khu vực Tây Nam bộ nói riêng, số lượng Nghệ sĩ Ưu tú trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật Khmer Nam bộ hiện nay còn chưa đến 10 người, đa số họ đã lớn tuổi, sức yếu. Các nghệ nhân, nghệ sĩ chủ yếu hoạt động trong các đoàn nghệ thuật Khmer tiêu biểu ở khu vực ĐBSCL như Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Khmer Bạc Liêu, Đoàn Nghệ thuật Khmer Kiên Giang; hay lãnh đạo của một số Sở, Ban, Ngành. Còn tại Trà Vinh, các đơn vị có hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật Khmer Nam bộ, gồm: Hệ thống các chùa Nam tông Khmer tại các phum sóc (mỗi phum sóc của người Khmer sinh sống có một chùa) biểu diễn trong các lễ hội hoặc các sự kiện lớn của phum sóc. Tuy nhiên, các chương trình văn nghệ chỉ dừng lại ở các tiết mục ca – hát, múa dân tộc và múa chằn,… kết hợp cùng một số trò chơi dân gian; Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh (tại khóm 9, phường 7, thành phố
Trà Vinh) biểu diễn tại các Hội diễn văn nghệ quần chúng Khmer, các lễ hội, sự kiện hoặc tham gia lưu diễn trong và ngoài tỉnh; Một số đội văn nghệ của các phum sóc hoặc các huyện biểu diễn tại các Hội diễn văn nghệ quần chúng Khmer, các lễ hội và sự kiện của địa phương; và đội văn nghệ của Khoa Ngôn ngữ – Văn hóa – Nghệ thuật Khmer Nam bộ thuộc Trường Đại học Trà Vinh biểu diễn tại các Hội diễn văn nghệ quần chúng Khmer, các chương trình lễ hội, sự kiện của Nhà Trường. Như vậy, các đoàn/nhóm nghệ nhân, nghệ sĩ biểu diễn các thể loại văn nghệ truyền thống Khmer Nam bộ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu thưởng thức văn nghệ của người dân Khmer bản địa. Khi khách du lịch đến Trà Vinh, họ không biết xem loại hình nghệ thuật này ở đâu, khi nào biểu diễn và làm thế nào để có thể thưởng thức trọn vẹn các tiết mục văn nghệ Khmer truyền thống. Mặt khác, các doanh nghiệp lữ hành cũng chưa có đầu mối liên hệ tổ chức nhằm phục vụ đối tượng khách Campuchia hoặc khi du khách có nhu cầu. Thủ tục để tổ chức đêm văn nghệ như thế nào, cần sắp xếp các tiết mục ra sao cho phù hợp, hay vấn đề ngôn ngữ và thông tin ý nghĩa cũng là một khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp lữ hành. Thật vậy, các nhóm biểu diễn giao lưu cồng chiêng ở Đà Lạt họ được chính quyền địa phương cấp giấy phép hoạt động, được các đơn vị lữ hành biết đến, người dân và các tiết mục văn nghệ có sự Việt hóa bên cạnh việc sử dụng tiếng dân tộc, chương trình được sắp xếp và thực hiện theo kịch bản,… Chính những yếu tố ấy đã phần nào tạo nên sự thành công cho hoạt động giao lưu dân tộc Lạch và kết quả là
bất kỳ đoàn khách nào đến Đà Lạt đều muốn một lần tham gia hoạt động giao lưu.
Trò chơi dân gian: là những hoạt động vui chơi nhằm tạo sự thoải mái, tiếng cười, rèn luyện sức khỏe, sự ăn ý, độ bền công việc, khả năng tập trung, sự cố gắng và tính nhẫn nại cho người tham gia. Trò chơi dân gian xuất hiện ở hai không gian khác nhau nhưng với mục đích hoàn toàn như nhau, đó là ở sân chùa và ở trong các phum sóc. Tại các phum sóc, trẻ em thường tự lập nhóm nhỏ và tổ chức các trò chơi theo sự “truyền dẫn” từ các bé lớn đến trẻ nhỏ, chúng tụ tập tự tổ chức và chơi với nhau. Điển hình nhất vẫn là các trò chơi được tổ chức tại chùa (leo cột mỡ, nhảy bao, đẩy gậy, bịt mắt đập nêu,…) được tổ chức ngay sau các buổi lễ cho đồng bào và người dân tham quan cùng tham gia hoạt động. Trò chơi dân gian không phân biệt người chơi, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt trình độ học vấn,…;
khách đến với trò chơi chủ yếu bởi họ muốn thử sức, muốn được vui và tạo không khí vui cho cá nhân và những người chơi lễ. Tuy nhiên, ngày nay việc tổ chức trò chơi dân gian đối với con trẻ ngày càng hiếm gặp do sự phát triển của game online; còn tại các điểm chùa, trò chơi dân gian chỉ còn được tổ chức định kỳ trong một đến hai lần trong năm vào ngày lễ Ok om bok hoặc lễ quan trọng của chùa.
Nghề và làng nghề: nghề dệt chiếu Cà Hom – Bến Bạ, nghề làm cốm dẹp Ba So, nghề làm bánh tét Trà Cuôn. Một thực trạng chung cho các làng nghề ở Trà Vinh nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, các nghề truyền thống đang bị mai một chỉ còn một vài hộ dân thực hiện theo hình thức thủ công truyền thống, còn lại hầu hết các hộ đã bỏ nghề hoặc nghề đã dần bị “máy móc hóa”. Các hộ dân còn theo nghề thì sản phẩm có mẫu mã ít và không theo kịp các hàng hóa công nghiệp. Theo xu hướng công nghiệp hiện nay, người dân bỏ nghề đi làm công nhân rất nhiều. Riêng hoạt động nhận khách tham quan thì các hộ dân tại làng nghề còn thiếu thông tin về nghề và làng nghề do làm nghề theo lối “cha truyền con nối”, chủ yếu học cách làm, còn về lịch sử của nghề thì ít người thông hiểu. Phần vì hiện nay đa phần các hộ dân nhận hàng làm gia công, quy mô nhỏ lẻ tại nhà theo từng công đoạn nên khó tổ chức hoạt động tham quan, khách khó trải nghiệm về tổ hợp quy trình làm ra sản phẩm. Để tham gia vào công tác đón khách tham quan, các hộ dân cần được tập huấn và triển khai kinh nghiệm làm du lịch, kiến thức về giao tiếp và kinh doanh hàng lưu niệm tại điểm.
Ẩm thực: bánh tét cốm dẹp, cốm dẹp, bánh tét Trà Cuôn, bún nước lèo, các loại cá khô, canh xiêm lo, các món bánh (bánh ống, bánh dứa). Về đặc sản địa phương, quà bánh như bánh tét Trà Cuôn, cốm dẹp,… đã được đóng gói, hút chân không theo đúng quy chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và đã được bày bán ở các cửa hàng, siêu thị hay đưa sang nước ngoài. Riêng về các món ăn như canh xiêm lo, bún nước lèo và các món bánh quà vặt thì Trà Vinh vẫn chưa có một khu quy hoạch riêng dành cho các sản phẩm đặc thù này. Các hàng quán của người dân theo cách kinh doanh truyền thống lại hạn chế về thời gian hoạt động và khác biệt về khẩu vị cũng như đặc trưng nguyên liệu chế biến nên khá kén khách ăn, đặc biệt là khách nước ngoài.
Phong tục tập quán và sinh hoạt nơi cư trú: Tính đến thời điểm hiện tại thì toàn tỉnh Trà Vinh có duy nhất một homestay của gia đình Khmer là Sươn sia homestay (huyện Cầu Kè). Homestay có 5 phòng, đón tối đa 12 – 15 khách lưu trú qua đêm. Hoạt động đón và nhận khách nước ngoài (khách Pháp và Châu Âu) ở và sinh hoạt tại nhà mang lại nguồn thu khá lớn cho gia đình. Tuy nhiên, mô hình làm du lịch này vẫn chưa được nhân rộng đến các hộ dân Khmer khác. Vấn đề thứ nhất, trình độ dân trí và sự hiểu biết về du lịch của người Khmer nói riêng và người dân Trà Vinh nói chung còn hạn chế nên người dân không mặn mà với việc kinh doanh du lịch, đặc biệt là nhận khách đến ở và sinh hoạt cùng gia đình. Vấn đề thứ hai, về môi trường do tập quán sinh hoạt và chăn nuôi gia súc, gia cầm của hộ gia đình người Khmer. Vấn đề thứ ba, rào cản về ngôn ngữ và thủ tục đăng ký kinh doanh tiếp nhận khách nước ngoài.
2.5. Đánh giá tiềm năng du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh
Tài nguyên văn hóa Khmer Nam bộ là một tổ hợp gồm rất nhiều các yếu tố nhân văn: yếu tố dân tộc học, lễ hội, di tích lịch sử văn hóa (chùa), nghề và làng nghề truyền thống, văn hóa nghệ thuật. Do vậy, để đánh giá tiềm năng du lịch của tài nguyên văn hóa Khmer Nam bộ, tác giả áp dụng phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh – Điểm yếu – Cơ hội – Thách thức) để đánh giá khả năng khai thác du lịch đối với tổ hợp văn hóa Khmer Nam bộ, như sau:
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tiềm năng du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh (phương pháp phân tích SWOT)
Điểm mạnh (Strengs): S1: Văn hóa Khmer Trà Vinh đa dạng về hình thái văn hóa nên kích thích nhu cầu tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa của du khách trong và ngoài nước. S2: Các hình thái văn hóa của người Khmer Trà | Điểm yếu (Weaknes): W1: Chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động du lịch nên gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách vào du lịch và du lịch với lợi ích cộng đồng tài nguyên. W2: Ý thức và trình độ dân trí của người dân địa |
Có thể bạn quan tâm!
- Văn Hóa Khmer Nam Bộ Và Hoạt Động Phát Triển Du Lịch Văn Hóa Khmer Nam Bộ
- Kinh Nghiệm Khai Thác Tiềm Năng Du Lịch Văn Hóa Nói Chung Và Văn Hóa Khmer Nói Riêng Tại Việt Nam Và Trong Khu Vực
- Định Hướng Trong Việc Bảo Tồn Và Phát Huy Văn Hóa Khmer Nam Bộ Của Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
- Các Yếu Tố Cơ Bản Thu Hút Du Khách Của Điểm Đến Du Lịch
- Tổng Hợp Thành Tố Có Tiềm Năng Phát Triển Du Lịch Văn Hóa Khmer Nam Bộ Tại Trà Vinh
- Để Thực Hiện Tốt Nhiệm Vụ “Xã Hội Hóa” Du Lịch Văn Hóa Khmer Nam Bộ, Tỉnh Trà Vinh Cần Chú Ý Đến Các Yếu Tố:
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Vinh vẫn còn “nguyên gốc”, không có sự pha lẫn văn hóa các dân tộc khác hoặc “hiện đại hóa” theo lối sống của du khách. S3: Du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh không có nhiều đối thủ cạnh tranh về sản phẩm du lịch và lợi thế kinh doanh tại Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung. | phương còn thấp và chưa đồng đều. Mặt khác, tập quán kinh doanh của người dân địa phương chủ yếu là nông nghiệp nên vẫn còn e dè với kinh doanh dịch vụ du lịch. W3: Tính liên kết giữa các tài nguyên chưa cao do hạn chế về vị trí địa lý và đơn vị lữ hành còn thiếu sự đầu tư cho tuyến điểm. | |
Cơ hội (Opportunities) O1: Văn hóa Khmer là lợi thế cạnh tranh của tỉnh Trà Vinh. O2: Phát triển du lịch văn hóa Khmer mang lại nhiều việc làm, cải thiện tài chính và nâng cao mức sống cho người dân trong vùng, đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí cho người dân Khmer Trà Vinh. O3: Hoạt động quảng bá hình ảnh du lịch địa phương làm nền tảng cho việc thu hút vốn đầu tư. O4: Bảo vệ và phát huy những nét đẹp đặc thù của | Điểm mạnh + Cơ hội (SO) S1O2: Kích thích nhu cầu du lịch Trà Vinh của du khách trong và ngoài tỉnh. Thông qua hoạt động “nhận khách” du lịch Trà Vinh sẽ mang lại nguồn thu về tài chính và trình độ dân trí cho người dân. Giúp địa phương thực hiện tốt mục tiêu dân sinh. S1O3 và S3O1: Sản phẩm du lịch đặc thù là yếu tố cốt lõi tạo nên lợi thế cạnh tranh trong thương trường nhiều biến động. Trà Vinh và Sóc | Điểm yếu + Cơ hội (WO) W1O1 và W1O4: Được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Chính phủ. Qua đó, tăng cường học tập và nâng cao công tác đào tạo đội ngũ nhân lực và tinh giản thủ tục hành chính Nhà nước về du lịch. W2O2: Công tác giáo dục tư tưởng, kiến thức và ý thức du lịch của người dân cần được quan tâm và thực hiện trong thời gian sớm nhất W3O3: Quảng bá tốt, kêu gọi đầu tư tốt sẽ mang lại |
Trăng là 2 đơn vị có đông đồng bào Khmer sinh sống nên hoạt động liên kết sẽ là một phương pháp tốt để du lịch văn hóa Khmer phát triển. S2O4: Tính “nguyên gốc” và yếu tố “thương mại hóa” cần được địa phương và chính quyền có những chính sách nhằm hỗ trợ người dân Khmer và tỉnh Trà Vinh làm kinh tế du lịch theo hướng bền vững. | các cơ hội đầu tư, hợp tác, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh du lịch. Tăng tính liên kết giữa các đơn vị kinh doanh du lịch, giữa người dân – chính quyền và các cấp. | |
Thách thức (Threats) T1: Chính sách, hỗ trợ đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; xây dựng các bộ quy định, quy chế cho hoạt động du lịch văn hóa Khmer Nam bộ; nghiên cứu và xây dựng bộ tiêu chuẩn điểm tham quan du lịch văn hóa Khmer. T2: Vấn đề an toàn môi trường sinh thái, môi trường kinh tế - xã hội tại các điểm tham gia cung ứng dịch vụ tham quan tìm hiểu cho du khách. | Điểm mạnh + Thách thức (OT) S1T3: Thực hiện các biện pháp bảo vệ, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc của người Khmer, ứng dụng tốt vào hoạt động du lịch tại tỉnh Trà Vinh. S2T2: Quyền lợi và nghĩa vụ của các cá nhân, tập thể tham gia vào hoạt động du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh và tại ĐBSCL. S3T1: Các ngành các cấp cần có những chính sách, | Điểm yếu + Thách thức (WT) W1T1: Ban hành các quy định, chính sách, tiêu chí đánh giá cho từng đối tượng có liên quan trong hoạt động kinh doanh du lịch (sự vật, sự việc và cả con người). W2T2: Xây dựng bộ quy tắc ứng xử giữa các cá nhân, đơn vị tham gia du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh (Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà dân) W3T3: Xác định tiềm |
dự án đầu tư cho loại hình du lịch này tại Trà Vinh, để du lịch văn hóa Khmer sẽ là sản phẩm du lịch đặc thù của du lịch Trà Vinh. | năng và tính “nguyên bản” của tài nguyên. Sau đó thực hiện đánh giá và liên kết tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh cung ứng cho khách tham quan (tour tham quan, gói sản phẩm bổ trợ). |
(Nguồn: Tác giả phân tích tổng hợp)
Dựa vào phương pháp phân tích và đánh giá SWOT cho tiềm năng du lịch văn hóa Khmer Nam bộ, chúng ta có thể đánh giá được rằng tài nguyên văn hóa Khmer Nam bộ là một tài nguyên nhân văn có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Việc phát triển du lịch dựa vào văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho địa phương và người dân nơi đây, đặc biệt là đồng bào Khmer tại Trà Vinh, Sóc Trăng và cả khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
2.6. Đánh giá các thành tố tiềm năng du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh
Hiện tại, tùy vào góc độ nghiên cứu hay quản lý, các nhà khoa học, các nhà quản lý đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về điểm đến du lịch. Các chuyên gia về quản lý điểm đến của Tổ chức Du lịch thế giới định nghĩa: Điểm đến du lịch là một không gian vật chất mà du khách lưu trú lại ít nhất một đêm. Nó bao gồm các sản phẩm du lịch như các dịch vụ hỗ trợ, các điểm đến và tuyến điểm du lịch trong thời gian một ngày. Nó có các giới hạn vật chất và quản lý giới hạn hình ảnh, sự quản lý xác định tính cạnh tranh trong thị trường.
Điểm đến có thể hiểu đơn giản là các khu, điểm du lịch, những đô thị, vùng quê, miền núi,… Những nơi này có thể là các điểm đến cho một chuyến đi trong ngày, một kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày. Ở một góc độ khác, các quốc gia, các lục địa cũng được xem xét và chào bán như là các điểm đến du lịch (Ủy ban lữ hành Châu Âu – ETC) và Hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương (PATA) có trách nhiệm tiếp thị cho Châu Âu và khu vực Thái Bình Dương như là những điểm đến du lịch).
Điểm đến bao gồm một số yếu tố cơ bản thu hút du khách và thỏa mãn những nhu cầu của họ tại điểm đến. Những yếu tố cơ bản có thể chia thành những