- Thứ hai, chương trình du lịch còn thiếu sự phong phú, quá đơn điệu, thiếu tính độc đáo và hầu như giống nhau với mọi loại khách, ở mọi thời điểm. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp lữ hành chỉ tìm kiếm các di tích, danh lam thắng cảnh có sẵn rồi xâu chuỗi chúng lại, kết hợp với các cơ sở dịch vụ du lịch là thành một tuyến du lịch cho khách du lịch Nhật Bản còn các loại hình du lịch như các tour du lịch khám phá mạo hiểm (lặn biển, chèo thuyền, leo núi) còn rất ít chưa thu hút được một số lượng khách lớn.
- Thứ ba, giá các chương trình du lịch của Việt Nam thường cao hơn so với các nước trong khu vực vì giá vé máy bay và thuế VAT cao làm “đội giá” toàn chương trình. Điều này làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các tuyến du lịch tại Việt Nam.
- Thứ tư, quảng cáo tiếp thị của các doanh nghiệp lữ hành chưa tạo được sức hút đối với du khách Nhật Bản. Mặc dù vài năm trở lại đây đã xuất hiện nhiều ấn phẩm như Guidebook, CD - ROM, băng video, tập gấp, tờ rơi....giới thiệu về Việt Nam song hầu như các ấn phẩm đó chưa được tuyên truyền rộng rãi, những hình ảnh về Việt Nam qua các phương tiện truyền thông đến với người nước ngoài một là quá ít, hai là bị lệch lạc. Các website về du lịch Việt Nam, các CD - ROM ấn phẩm bằng tiếng Nhật chưa có để tuyên truyền quảng bá ở thị trường này. Các băng video, tài liệu phần lớn là những băng quá cũ hoặc không được kiểm soát chặt chẽ. Các doanh nghiệp lữ hành cũng tự xuất bản các ấn phẩm của riêng mình, tự quảng cáo về mình qua sách, báo, tivi... nhưng cơ hội tiếp xúc với các hãng lữ hành quốc tế và khách hàng một cách trực tiếp để quảng cáo thì hầu như không có.
- Thứ năm, cơ sở vật chất có chất lượng cao phục vụ du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch Nhật Bản: thiếu khách sạn cao cấp từ 3 sao trở lên, không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường, gây tình trạng căng thẳng thiếu phòng thường xuyên và thực tế các hãng lữ hành đã phải từ chối
nhiều đoàn khách quốc tế muốn đến thăm Việt Nam. Thiếu phương tiện vận chuyển hiện đại cho khách du lịch. Hệ thống taxi tuy đủ về số lượng nhưng chất lượng phục vụ chưa thực sự tốt. Dịch vụ vui chơi giải trí còn thiếu và kém chất lượng, thiếu khu vui chơi giải trí, khu du lịch, trung tâm triển lãm, trung tâm thương mại mang tầm cỡ quốc gia và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở hạ tầng và giao thông còn hạn chế nên việc vận chuyển du khách còn chiếm nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian nghỉ, tham quan… không phù hợp với tâm lý yêu cầu của du khách.
- Thứ sáu, mối quan hệ quốc tế của các hãng lữ hành chưa được mở rộng. Hiện nay, du lịch Việt Nam đã ký hợp tác du lịch song phương với 13 nước. Đã ký, tham gia hợp tác đa phương trong khuôn khổ ASEAN, tiểu vùng Mê Kông mở rộng, EU, ba nước Việt - Lào - Thái Lan.
- Thứ bảy, khách Nhật ít quay lại Việt Nam, đặc biệt là ít đối với lần thứ ba. Nguyên nhân là do họ thiếu thông tin, không hài lòng lắm khi đi mua sắm (sản phẩm còn nghèo nàn) và không thấy thông tin về hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Ngoài ra lý do còn là cơ sở hạ tầng của Việt Nam yếu kém và du lịch Việt Nam chưa thực sự hướng tới khách du lịch giàu có.
Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam quan hệ với trên 1000 công ty của trên 50 nước nhưng hiện tại mới chỉ có 15 doanh nghiệp lữ hành gia nhập Hiệp hội các hãng lữ hành Nhật Bản (JATA) nên khả năng thâm nhập thị trường Nhật Bản còn rất hạn chế.
15 doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là thành viên của JATA: Công ty du lịch thành phố Hồ Chí Minh, Công ty du lịch Hương Giang, OSC Việt Nam, Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội, Công ty du lịch Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Công ty du lịch Việt Nam tại Đà Nẵng, Công ty du lịch và dịch vụ Hà Nội, Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour, Công ty du lịch dịch vụ Bến Thành, Công ty du lịch dịch vụ Hạ Long, Công ty du lịch Khánh
Hoà, Hàng không Việt Nam, Công ty du lịch Đà Lạt - Lâm Đồng, Công ty du lịch Hà Nội.
Những công ty lữ hành Việt Nam tham gia khai thác thị trường khách Nhật đó là: Công ty du lịch Hương Giang, Saigontourist, Vietravel, Fiditour, Công ty du lịch – dịch vụ OSC – SMI.
Một số hãng lữ hành có quan hệ gửi khách với các công ty lữ hành Việt Nam là: Japan Travel Bureau, Nippon Travel Agency, Kinki Nippon Tourist, Jalpak, Jetour Corp, H.I.S, Nippon Express và một số hãng lữ hành khác.
2.3. Thị trường khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam
2.3.1. Số lượng khách
Trong vài năm trở lại đây, ngành du lịch Việt Nam đón nhận một xu hướng "bùng nổ" dòng khách Nhật đi du lịch Việt Nam. Nếu như cách đây hơn 10 năm, lượng khách Nhật đến Việt Nam chỉ dừng lại con số ít ỏi hơn
1.000 khách, thì đến năm 2002 đã tăng lên đến gần 300.000 khách. Hàng năm, số người Nhật đi du lịch các nước khoảng 18 triệu người, nhưng chỉ 1% trong số này đến Việt Nam (cứ 3,5 triệu/18 triệu lượt người đến ASEAN, trong đó tới Thái Lan 1,3 triệu, tới Singapore 0,9 triệu, tới Indonesia là 0,6 triệu). [56]
Những năm gần đây, lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam có chiều hướng tăng lên, đặc biệt là sau khi đường bay trực tiếp từ thành phố Osaka đến thành phố Hồ Chí Minh được mở. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam năm 2000 là 142.900 người, năm 2001 tăng lên 205.100 người, năm 2002 tăng lên 279.800 người, sau đó lượng khách chững lại và chỉ đạt hơn 209.600 người vào năm 2003 và hơn
267.210 vào năm 2004. Và đến năm 2005, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đạt 320.605 người. Trong khi đó, chỉ xét riêng năm 1996, lượng
khách Nhật Bản đến các nước ASEAN đạt 3,4 triệu người, trong đó lượng khách đến Singapore là 1.171.899 người, đến Thái Lan là 940.196 người, đến Indonesia là 638.287 người và đến Malaysia là 353.204 người. Còn lượng khách Nhật đến Việt Nam thì chỉ đạt hơn 118.000 người. Đến năm 2005 khách Nhật Bản đến Việt Nam đạt 320.605 khách, trung bình tăng 20%/năm so với năm 2004. Thị phần khách Nhật Bản chiếm 6 - 7% tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. “So với số du khách Nhật đến Việt Nam, số người Nhật đi thăm các nước châu Âu, hoặc chỉ đến Bangkok thôi cũng lớn hơn nhiều”. [23, 102].
Bảng 1. Số lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam (2002 - 2006) [58, 59, 60,
61].
Đơn vị : lượt khách
2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 10 tháng năm 2006 | |
Đài Loan | 211.100 | 208.100 | 256.906 | 286.324 | 229.871 |
Nhật Bản | 279.800 | 209.600 | 267.210 | 320.605 | 311.795 |
Pháp | 111.500 | 86.800 | 104.025 | 126.402 | 106.551 |
Mỹ | 259.900 | 218.800 | 272.473 | 333.566 | 322.329 |
Anh | 69.700 | 63.300 | 71.016 | 80.884 | 67.831 |
Thái Lan | 41.000 | 40.100 | 53.528 | 84.100 | 97.102 |
Trung Quốc | 723.400 | 693.000 | 778.431 | 752.576 | 456.247 |
Các quốc tịch khác | 411.060 | 546.891 | 668.760 | 834.185 | 231.976 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hấp Dẫn Của Du Lịch Đối Với Người Nhật Bản
- Điều Kiện Làm Nảy Sinh Nhu Cầu Du Lịch Của Người Nhật Bản
- Thực Trạng Khai Thác Thị Trường Khách Nhật Bản Tại Việt Nam
- Lựa Chọn Các Công Ty, Đại Lý Du Lịch Phục Vụ Chuyến Đi
- Thị Trường Khách Du Lịch Nhật Bản Và Vấn Đề Đối Mặt Với Kinh Doanh Du Lịch Việt Nam
- Định Hướng Khai Thác Thị Trường Khách Du Lịch Nhật Bản Là Thị Trường Trọng Điểm
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
2.3.2. Cơ cấu khách
Khách du lịch Nhật Bản là một thị trường khá mới mẻ ở Việt Nam cũng như ở Hà Nội. Vì vậy ngoài số liệu của Tổng cục Du lịch Việt Nam tác giả
khoá luận còn sử dụng một số kết quả thu được từ việc tiến hành điều tra sơ bộ với 42 khách trong thời gian một tháng, đặc biệt lấy dẫn chứng là điều tra khách du lịch Nhật Bản trong phạm vi Hà Nội. Kết quả điều tra không thể nói hết được các đặc điểm khách Nhật Bản vào Hà Nội nhưng đó cũng là cơ sở cần thiết để bổ sung một số thông tin trong quá trình nghiên cứu.
*Theo mục đích chuyến đi
Bảng 2. Mục đích đi du lịch của người Nhật Bản
Số phiếu | % | |
Tham quan du lịch | 18 | 42.9 |
Kinh doanh thương mại | 7 | 16.7 |
Thăm thân | 0 | 0 |
Mục đích khác | 17 | 40.4 |
Mục đích đi du lịch của người Nhật được xếp theo thứ tự ưu tiên: du lịch thuần tuý, du lịch kết hợp kinh doanh, thăm thân, du lịch kết hợp tìm hiểu thị trường, trong đó mục đích đi du lịch thuần tuý nghỉ ngơi, tham quan chiếm tỷ lệ cao. Ngoài ra, mục đích du lịch gắn với việc đi dự thảo, hội nghị, hội thảo và tham gia các khoá học ở nước ngoài tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng đang tăng dần trong những năm gần đây. Người Nhật đi du lịch ở các nước châu Á và châu Âu thuần tuý nghỉ ngơi, giải trí cao hơn ở Mỹ. Châu Á điển hình là Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á được coi là thị trường đầu tư hấp dẫn nên dẫn thu hút được khá nhiều khách Nhật đi du lịch kết hợp với mục đích kinh doanh. Trong khi đó, mục đích du lịch kết hợp tham dự hội nghị, hội
thảo và học tập lại chuyển hướng sang châu Âu và Mỹ, nơi có hệ thống giáo dục đào tạo vững chắc, trung tâm của các cuộc hội thảo, hội nghị kinh tế - chính trị - xã hội tầm cỡ thế giới.
*Theo giới tính
Đến Hà Nội, khách là nữ giới nhiều hơn là nam giới, kết quả điều tra cho thấy: Nam giới chiếm 19%, nữ giới là 81%. Cũng theo số liệu của công ty du lịch Việt Nam - Hà Nội thì số lượng khách Nhật chiếm 65,7% là nam giới, còn lại là 34,3% là nữ giới. Tỷ lệ này chưa phản ánh đầy đủ xu hướng chung của giới nữ đang gia tăng việc đi du lịch nước ngoài.
*Theo số lần đến
Bảng 3. Số lần đến Hà Nội của khách Nhật Bản
(%) | |
Lần thứ nhất | 64.3 |
Lần thứ hai | 23.8 |
Lần thứ ba | 11.9 |
Lần thứ tư | 0 |
Theo kết quả điều tra cho thấy, khách Nhật Bản đến Hà Nội lần đầu và lần thứ hai, thứ ba chênh lệch rất nhiều. Theo sự đối chiếu giữa các phiếu điều tra thì khách đến lần thứ hai, thứ ba chủ yếu là đối tượng khách có mục đích kinh doanh, dự hội nghị, hội thảo. Còn khách Nhật đến Hà Nội lần đầu thường là khách du lịch thuần tuý.
*Theo độ tuổi
Theo số liệu điều tra, trong tổng số khách nữ ra nước ngoài của Nhật Bản thì độ tuổi 20 - 29 chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 4. Phân loại khách đến Hà Nội theo độ tuổi
(%) | |
Dưới 17 | 0 |
Từ 18 - 25 | 59.5 |
Từ 26 - 35 | 26.2 |
Từ 36 - 45 | 9.5 |
Từ 46 - 55 | 2.4 |
Trên 60 | 2.4 |
Qua bảng trên, khách đến Hà Nội chủ yếu là từ độ tuổi 18 - 25. Đây là khách thuộc nhóm sinh viên. Còn số khách từ 55 - 60 tuổi trở lên còn quá ít.
2.3.3. Chi tiêu của khách
Trong các chuyến du lịch, do có thu nhập cao nên người Nhật thường có xu hướng sử dụng dịch vụ và mua những sản phẩm có chất lượng cao. Khách du lịch Nhật được đánh giá là đối tượng khách có chi tiêu cao. Bình quân mỗi khách nước ngoài vào VN tiêu khoảng 400 – 450 USD, nhưng bình quân một khách Nhật tại Việt Nam chi khoảng 2.000 – 3.000 USD/chuyến. Nhu cầu mua sắm của du khách Nhật Bản cao vì khả năng chi tiêu của du khách Nhật Bản cao. Hiện nay, họ là một thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn của công nghiệp dệt may và hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Nắm bắt cơ hội này, tại nhiều điểm du lịch nhất là ở TP. Hồ Chí Minh) nhiều nhà kinh doanh đã mở những cửa hàng chuyên doanh phục vụ riêng cho khách Nhật. Những mặt hàng được tiêu thụ mạnh là đồ may mặc sẵn, đồ trang sức thủ công như túi kết cườm, dây đeo tay đeo cổ tết bằng các loại sợi màu, giày dép thời trang lạ mắt.
2.3.4. Thời vụ du lịch
Người Nhật đi du lịch nhiều nhất vào bốn thời điểm: Giáng sinh, năm mới (25/12 đến 7/1); kỳ nghỉ xuân của sinh viên Nhật (cuối tháng 3 đầu tháng 4); tuần lễ vàng (cuối tháng 4 đầu tháng 5); thời gian học sinh Nhật nghỉ hè (cuối tháng 7 đến cuối tháng 8). Họ thường đăng ký với các đơn vị lữ hành thời gian khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Mùa đi du lịch cao điểm nhất là mùa hè và Tết.
Theo điều tra của JNTO - Tổ chức du lịch quốc gia Nhật Bản, năm 2005 những tháng đỉnh điểm đi du lịch nước ngoài của người dân Nhật là từ tháng 4 đến tháng 8 với số khách trung bình 1,52 triệu. Ngoài ra, dịp năm mới 2005 cũng thu hút 12,1% người Nhật ra nước ngoài. [49, 35].
2.3.5. Độ dài trung bình của chuyến du lịch
Người Nhật không đi du lịch trong thời gian dài, phần lớn ngày nghỉ của họ ngắn hơn ở những nước phương Tây. Hơn nữa, nhiều người Nhật không nghỉ hết ngày cho phép vì ở một số công ty như thế bị xem là thiếu tinh thần trách nhiệm. Khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam chỉ thích đi du lịch năm ngày bốn đêm hoặc bốn ngày ba đêm Tuy nhiên suy nghĩ này đang dần dần thay đổi. Vì vậy thời gian trung bình của mỗi chuyến đi nghỉ là 8 ngày, tuỳ từng điểm đến mà độ dài tour có thể kéo dài hoặc thu hẹp lại. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các điểm du lịch và trình độ hiểu biết của người Nhật đối với địa điểm đó.
2.3.6. Quyết định đi du lịch
Phần lớn người Nhật cho rằng quyết định đi du lịch còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Các công ty lữ hành quan tâm trước hết đến đối tượng: chắc chắn đi du lịch và đã có kế hoạch; chắc chắn đi nhưng chưa có kế hoạch, vì nó