Đề Xuất Một Số Giải Pháp Giảm Thiểu Rủi Ro Trong Dự Án Đường Sắt Đô Thị Tại Tp.hcm


chưa thể hiện cao độ giao cắt giữa tuyến số 1 với tuyến số 3A và tuyến số 4, chưa có thiết kế chờ để kết nối với tuyến số 2, số 3A và số 4 trong tương lai. Bên cạnh đó, dự án áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật hệ thống ĐSĐT của Châu Á – STRASYA vào thiết kế, tuy nhiên quá trình áp dụng tiêu chuẩn còn một số chỉ tiêu không tuân thủ đúng chỉ dẫn của tiêu chuẩn. Chính vì một số sai sót trong quá trình thiết kế đã trình bày ở trên góp phần to lớn trong việc gia tăng chi phí, kéo dài thời gian thực hiện dự án và ảnh hưởng đến chất lượng dự án. Tầm quan trọng của biến rủi ro này cũng đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu như của PAC [98], Hodge G A [69], Ghosh S và Jintanapakanont J [59].

Nhóm các yếu tố được xếp hạng mức độ ưu tiên thấp hơn thuộc về các RR như là RR do các sai sót trong công tác giám sát chất lượng (K4) với chỉ số ưu tiên rủi ro là 0,132 được xếp vị trí thứ năm; sự gián đoạn trong quá trình cung ứng (K7), với chỉ số mức độ ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá là 0,103 xếp vị trí thứ sáu và biến Hồ sơ khảo sát địa hình, địa chất, thủy văn có nhiều thiếu sót, không thực hiện đầy đủ, điều kiện địa chất phức tạp (K1) được xếp thứ bảy với chỉ số mức độ ưu tiên là 0,097.

4.6.3. Nhóm rủi ro xã hội‌


Nhóm rủi ro có mức độ ưu tiên được xếp vị trí thứ ba thuộc về nhóm RRXH với chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá NRPI = 0,182. Kết quả phân tích chỉ ra rằng việc chậm giải phóng mặt bằng là những RR quan trọng ảnh hưởng đến tiến độ, chi phí và chất lượng dự án. Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu cũng chỉ thêm rằng, sự điều chỉnh phạm vi dự án của các bên liên quan (XH5), các bên xảy ra mẫu thuẫn khiếu kiện (XH6) cũng là những rủi ro có mức độ rủi ro cao ảnh hưởng lên toàn bộ dự án.

Trong nhóm này, biến XH1 – Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm, không đồng bộ với chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp đã được chuẩn hóa NRPI = 0,301 đứng vị trí đầu tiên. Công tác giải phóng mặt bằng chậm, không đồng bộ có thể đến từ nhiều nguyên nhân như chi phí đền bù không thoả đáng, công tác giải toả mặt bằng gặp phải sự phản đối của cộng đồng người dân…Thực tế cho thấy, do các tuyến ĐSĐT TP.HCM được quy hoạch dàn trải theo các hành lang đô thị có mật độ dân cư cao và ổn định nên việc có được mặt bằng ‘sạch’ là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của dự án. Tại thời điểm khởi công Tuyến số 1 tháng 07/2012, chỉ có 80% mặt bằng


được bàn giao cho Nhà thầu. Toàn bộ mặt bằng bàn giao hết vào khoảng đầu năm 2015. Chậm hơn 02 năm so với kế hoạch. Vấn đề này gần như đang xảy ra đối với tất cả các tuyến ĐSĐT đang thực hiện tại cả Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến thời gian, chi phí thực hiện dự án rất lớn. Kết quả nghiên cứu này khá phù hợp với nghiên cứu của Bộ Giao Thông Vận Tải [2] và Trần Quang Phú [10]. Tuy nhiên, theo các chuyên gia được khảo sát, các RR này không chỉ gây ra chậm tiến độ như đề cập của Bộ Giao Thông Vận Tải [2] và Trần Quang Phú [10], mà còn gây ra gia tăng chi phí và ảnh hưởng đến chất lượng dự án. Rủi ro này cũng được xem là một trong những rủi ro thường xuyên xảy ra và được đánh giá có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của các dự án trên thế giới theo các nghiên cứu của Hilber C A và Robert- Nicoud F [67], Funderburg R G, Nixon H và cộng sự [57], Glaeser E L và Ward B A [60].

Xếp hạng mức độ ưu tiên thứ hai thuộc về biến XH3 đó là sự bất đồng quan điểm, thiếu sự hợp tác giữa các bên tham gia với chỉ số ưu tiên rủi ro NRPI = 0,185. Sự bất đồng quan điểm, thiếu sự hợp tác giữa các bên tham gia thể hiện khá rõ trong quá trình thực hiện dự án. Có rất nhiều bên tham gia thực hiện dự án. Cụ thể, chủ đầu tư là Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập Ban quản lý dự án đường sắt đô thị số 1 trực thuộc ban quản lý dự án đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh để quản lý dự án. Đơn vị tư vấn bao gồm một số nhà thầu như công ty Nippon Koei, JIC, PBJ, JRC, TONICHI, TEDI South và TRICC. Nhà thầu thi công với liên danh chính là Sumitomo – Cienco6, Sumitomo- Cienco4, Shimizu-Meada, Hitachi. Nhà tài trợ là cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và chính phủ Việt Nam. Theo Trần Quang Phú [10] việc phối hợp giữa các chủ thể tham gia dự án chưa thể hiện tính tích cực, chủ động. Các Nhà thầu chính chưa tích cực chủ động phối hợp với nhau về thiết kế, về ngày tiếp cận giữa các gói thầu, về phối hợp với các Ban - Ngành chức năng trong quá trình thiết kế, thi công. Chậm trễ trong phối hợp giữa Chủ đầu tư và các Ban - Ngành chức năng trong thủ tục về điều chỉnh dự án, về phê duyệt hồ sơ theo quy định, và cả trong chuyển giao mặt bằng xây dựng không còn công trình kiến trúc và không bị ảnh hưởng bởi hạ tầng kỹ thuật. Các Ban - Ngành chức năng, các cấp địa phương chậm trễ phối hợp trong bồi thường do thu hồi đất.


Việc xác nhận hồ sơ thanh toán của các cơ quan quản lý thuộc trung ương thường xuyên bị chậm trễ.

Áp lực điều chỉnh phạm vi dự án từ các bên liên quan – XH5 được xếp thứ ba với chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá NRPI = 0,181. Yếu tố rủi ro này cũng đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu nước ngoài, cụ thể của một số nhà nghiên cứu như Winch G M [132], Olander S và Landin A [96], Bourne L và Walker D [33], Miller R và Lessard D [91].

Biến XH6 - Xảy ra khiếu kiện, tranh chấp trong quá trình thực hiện dự án giữa các bên liên quan có chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá NRPI = 0,101 được xếp thứ bốn. Trong khi, dựa vào kết quả đánh giá riêng lẻ của các chuyên gia, vị trí ưu tiên này lại thuộc về biến XH4 – Các tác động xã hội tiêu cực (vấn đề giao thông, tái định cư, thay đổi lối sống…) với giá trị MV = 4,995 và biến XH6 này được xếp thứ 5 với giá trị MV = 4,895. Nguyên nhân xảy ra rủi ro này đến từ vấn đề chậm giải ngân vốn, chậm thanh toán giữa chủ đầu tư và các nhà thầu, do bất đồng quan điểm, thiếu sự hợp tác giữa các bên liên quan. Điều này đã làm gia tăng ảnh hưởng của chúng đến toàn bộ dự án. Yếu tố này đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu như Alinaitwe H M, Mwakali J A và cộng sự [21], Jones T và Brinkert R [75], Al-Momani A H [19], Funderburg R G, Nixon H và cộng sự [57].

Biến XH7 - Sự phản đối của dư luận xã hội, cộng đồng được xếp thứ năm với chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá NRPI = 0,087. Sự phản đối của cộng đồng đã được nhắc đến trong nhiều nghiên cứu trên thế giới của một số tác giả như Funderburg R G, Nixon H và cộng sự [57]. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước chưa đề cập nhiều đến các vấn đề này. Sự phản đối của cộng đồng là một hàm phụ thuộc các biến như do sự đe doạ đến tài sản của cộng đồng, các tác động tiêu cực do dự án mang lại, sự gia tăng chi phí, thời gian dự án kéo dài …

Vị trí ưu tiên cuối cùng trong nhóm các RR này thuộc về XH2 – Đe doạ đến sự an toàn con người và tài sản với giá trị NRPI = 0,058. Kết quả này phù hợp với kết quả tổng hợp ý kiến của các chuyên gia với giá trị MV = 4,399.

4.6.4. Nhóm rủi ro chính trị‌


Các yếu tố chính trị không chắc chắn thường gây ra những RRCT ảnh hưởng đến các dự án đầu tư công nói chung. Tuy nhiên rất ít nghiên cứu hiện nay tập trung


phân tích một cách toàn diện khía cạnh này. Kết quả nghiên cứu của luận án vì thế góp phần làm giàu cơ sở lý luận về RRCT trong các dự án đầu tư công. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nhóm RRCT là nhóm RR có mức độ ưu tiên thứ bốn khi tính đến tầm quan trọng của chúng đối với các mục tiêu chính của dự án (NRPI = 0,14), xếp sau rủi ro kinh tế, kỹ thuật, và xã hội.

Trong nhóm này, biến CT4 – dự án bị trì hoãn được xem là rủi ro quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ dự án và được xếp thứ hạng ưu tiên đầu tiên với chỉ số NRPI = 0,421. Đây được xem lại một trong những biến rủi ro chính trị có ảnh hưởng rất lớn đối với dự án ĐTXD trên thế giới nói chung theo các nghiên cứu đi trước như Ngân hàng ADB [16], và World Bank [133], Flyvbjerg B [54], EC [52].

Kết quả nghiên cứu của luận án còn bổ sung thêm một RRCT quan trọng gây nên chậm tiến độ, gia tăng chi phí và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dự án đó là CT2 - Sai sót trong công tác thẩm định, phê duyệt các hồ sơ liên quan, biến rủi ro này được xếp vị trí thứ hai với chỉ số ưu tiên tổng hợp được chuẩn hoá NRPI = 0,259. Trong khi, dựa vào kết quả đánh giá riêng lẻ của các chuyên gia, thì biến rủi ro này có tầm quan trọng lớn đối với chi phí (MV = 6,493), có tầm quan trọng hơi lớn đối với thời gian (MV = 5,789) và tầm quan trọng trung bình đối với tiêu chí chất lượng (MV

= 4,423). Dựa vào kết quả đánh giá của các chuyên gia khi không xem xét các mối liên hệ tương tác qua lại giữa các yếu tố thì CT2 - Sai sót trong công tác thẩm định, phê duyệt các hồ sơ liên quan sẽ được xếp vị trí thứ ba với MV = 5,568 thay vì được xếp vị trí thứ hai như kết quả đánh giá từ mô hình ANP. Việc xác định thứ hạng ưu tiên một các chính xác đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng các chính sách, phân bổ các nguồn lực phù hợp trong việc đối phó với rủi ro, do đó kết quả từ mô hình ANP mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn. Rủi ro này xảy ra khi dự án ĐSĐT Tuyến số 1 Bến Thành – Suối Tiên lần đầu tiên được triển khai tại TP.HCM với quy mô lớn và vô cùng phức tạp, điều này đã dẫn đến một số sai sót trong công tác thẩm định, phê duyệt hồ sơ. Cụ thể, đối với Tuyến số 1, một số sai sót đã xảy ra. Thứ nhất, hồ sơ thiết kế được duyệt không phù hợp với thiết kế cơ sở được duyệt. Sự sai sót này xảy ra Ban quản lý đường sắt đô thị (BQL ĐSĐT) phê duyệt kết quả thẩm định thiết kế kỹ thuật là không đúng thẩm quyền cho phép. Trong quá trình thực hiện BQL ĐSĐT đã tự thẩm định thiết kế kỹ thuật và không trình UBND Thành phố Hồ Chí


Minh phê duyệt kết quả thầm định thiết kế kỹ thuật. Hơn thế nữa, BQL ĐSĐT đã tiến hành phê duyệt thiết kế kỹ thuật khi chưa có Báo cáo thẩm định là chưa phù hợp về mặt trình tự thủ tục. Thứ hai, công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự toán còn nhiều hạn chế, sai sót trong việc xác định đơn giá và tính toán khối lượng làm tăng giá trị dự toán là 1.608.048 triệu đồng. Thêm vào đó, việc BQL ĐSĐT phê duyệt kết quả thẩm định dự toán là không đúng thẩm quyền, theo mục 3 Công văn số 7552/UBND-QLDA giao BQL ĐSĐT chủ trì, phối hợp với các cơ quan có chức năng tổ chức thẩm định thiết kế kỹ thuật, dự toán xây dựng công trình, trình UBND Thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt kết quả thẩm định. Thứ ba, công tác thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu các gói thầu 1a, 1b, gói thầu số 2, gói thầu số 3 và gói thầu tư vấn chung còn nhiều sai sót. Ví dụ, đối với gói thầu số 3, thời gian sơ tuyển của các nhà thầu lên đến 115 ngày trong khi theo Khoản 1, điều 31 Luật đấu thầu số 61 quy định thời gian sơ tuyển đối với đấu thầu quốc tế là 45 ngày. Bên cạnh đó, quá trình đấu thầu của gói thầu số 3 kéo dài 3 năm (từ khi bán hồ sơ mời thầu tháng 01/2010 đến khi có Quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu tháng 01/2013) đã phần nào ảnh hưởng đến tiến độ, chi phí và chất lượng dự án. Kết quả nghiên cứu này cũng đã được phân tích và đề cập trong nhiều báo cáo của Ban quản lý dự án ĐSĐT, đơn vị tư vấn quản lý dự án và đơn vị kiểm toán nhà nước. Rủi ro này cũng đã được đề cập trong các nghiên cứu của NAO [93], PAC [98].

Biến CT3 – Sự thay đổi trong chính sách và quy định pháp luật được xếp thứ ba với chỉ số ưu tiên rủi ro được chuẩn hoá NRPI = 0,219. Do dự án được thực hiện trong thời gian dài nên dự án chịu ảnh hưởng rất nhiều từ sự thay đổi trong các chính sách và quy định của pháp luật. Trong khi quy định của nhà tài trợ là sử dụng hướng dẫn FIDIC được áp dụng xuyên suốt thì các thủ tục trong nước liên quan đến quản lý dự án thay đổi nhiều lần. Chính những điều chỉnh này đã phần nào ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Sự thay đổi này được đề cập trong các nghiên cứu tại TP.HCM và được thể hiện trong bảng 4.40.

Bảng 4.40. Thay đổi các VBPL trong thời gian thực hiện Tuyến ĐSĐT số 1 [10]


Quy định/nội dung

Lần thay đổi

Năm thay đổi

Luật Xây dựng

3

2003, 2009, 2014

Luật Đấu thầu

3

2005, 2009, 2013

Luật Đường sắt

2

2005, 2015

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Nghiên cứu rủi ro dự án đầu tư xây dựng đường sắt đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh - 19


Quy định/nội dung

Lần thay đổi

Năm thay đổi

Nghị định về đấu thấu

3

2008, 2009, 2014

Nghị định về quản lý dự án

4

2006, 2009, 2015, 2017

Nghị định về quản lý chất lượng

3

2004, 2013, 2015

Nghị định về hợp đồng trong xây

dựng

2

2010, 2015

Thông tư hướng dẩn quản lý chất

lượng

3

2005, 2013, 2016

FIDIC 1999

Không

1999

Bên cạnh đó, các dự án ODA có thể được coi là đảm bảo do nguồn vốn đã được cam kết. Tuy nhiên việc giải ngân phải căn cứ vào các quy định theo pháp luật của Việt Nam. Các điều chỉnh làm tăng kinh phí xây dựng là gánh nặng pháp lý đối với Chủ đầu tư và khó khăn do thiếu vốn vẫn có thể xảy ra khi Chủ đầu tư được coi là chưa hoàn chỉnh các thủ tục pháp lý đối với các khoản tăng thêm đó. Kết quả này cũng đã được đề cập trong các nghiên cứu nước ngoài như NAO [93], PAC [98], Hodge G A [69].

Biến CT1 - Rào cản quy định pháp luật được xếp hạng mức độ ưu tiên thứ 4 với chỉ số ưu tiên rủi ro là 0,122. Vị trí này phù hợp với kết quả tổng hợp ý kiến đánh giá tầm quan trọng của các rủi ro một cách riêng của các chuyên gia với giá trị MV = 5,066. Điều này khá phù hợp với thực tế đang diễn ra đối với dự án ĐSĐT số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Thứ nhất, việc xác nhận hồ sơ thanh toán của các cơ quan quản lý thuộc trung ương thường xuyên bị chậm trễ. Các điều chỉnh về thủ tục, luật pháp làm nảy sinh những xung đột mới trì hoãn tiến độ thực hiện. Thứ ba, đối với dự án này, Chủ đầu tư phê duyệt cho hầu hết các hồ sơ dự án dựa trên báo cáo đánh giá chung của tư vấn như thiết kế kỹ thuật do nhà thầu lập, chấp nhận nhà thầu phụ, ký nghiệm thu chất lượng, nghiệm thu hồ sơ thanh toán, ban hành quyết định liên quan đến tiến độ, quy trình đảm bảo chất lượng, ra các quyết định thay đổi, điều chỉnh phát sinh. Việc phải tham gia rất sâu về quản lý kỹ thuật của chủ đầu tư ở dự án này cũng như sự chậm trễ trong việc hoàn thành các thủ tục pháp lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời gian, chi phí và chất lượng dự án. Chính vì những điều này mà mức độ ưu tiên của nhóm này được đánh giá khá cao. Thứ tư, hai năm gần đây 2018-2019 dự án metro


Bến Thành - Suối Tiên không được giao thêm vốn vì lý do là dự án chưa hoàn thiện thủ tục pháp lý về điều chỉnh tổng mức đầu tư, đồng thời chưa xác định rõ được giá trị vay lại hoặc cấp phát vốn vay nước ngoài từ ngân sách trung ương. Cụ thể, năm 2007, thành phố phê duyệt công trình với tổng mức đầu tư khoảng 17.000 tỷ đồng. Khi đó dự án được xác định thuộc nhóm A - không phải trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư. Tuy nhiên với mức đầu tư điều chỉnh là khoảng 47.000 tỷ đồng, nó đã trở thành dự án trọng điểm quốc gia nên phải trình Quốc hội xem xét. Chính điều này đã làm dự án gặp khó khăn trong việc phê duyệt chi phí phát sinh, bố trí vốn. Cụ thể, phía Nhật chấp nhận cho vay ODA với hơn 41.800 tỉ đồng (chiếm gần 90%), thành phố Hồ Chí Minh sẵn sàng tự lực chi đối ứng, tuy nhiên do các các quy định hiện hành, các Bộ vẫn chỉ bố trí vốn theo phương án 17.000 tỷ đồng ban đầu. Năm 2017, vốn ODA được giao chỉ là 2.119 tỉ đồng, trong khi nhu cầu là 5.422 tỉ đồng (đáp ứng được 39%), giai đoạn 2016-2020 nhu cầu vốn là 20.930 tỉ đồng thì tuyến metro 1 mới được giao 7.500 tỉ đồng (đáp ứng 36%). Điều này dẫn đến tình trạng khiếu kiện của các nhà thầu thi công khi không được thanh toán đúng thời hạn và ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, chất lượng và thời gian thực hiện dự án. Thứ năm, công tác đấu thầu lựa chọn nhà thầu gặp nhiều vướng mắc, khó khăn do các ràng buộc phức tạp quy chế đấu thầu của các nhà tài trợ. Vấn đề này góp phần làm tiến độ dự án bị kéo dài, ảnh hưởng đến chi phí. Kết quả nghiên cứu này cũng đã được phân tích và đề cập trong nhiều báo cáo của Ban quản lý dự án ĐSĐT, đơn vị tư vấn quản lý dự án và đơn vị kiểm toán nhà nước.

4.6.5. Nhóm rủi ro môi trường‌


Các biến rủi ro trong nhóm này bao gồm MT1 – Điều kiện thời tiết không thuận lợi được xếp hạng ưu tiên thứ nhất với NRPI = 0,542, biến rủi ro MT1 – Ô nhiễm môi trường được xếp thứ hai với chỉ số ưu tiên rủi ro tổng hợp được chuẩn hoá là 0,458. Các hoạt động xây dựng của dự án này có những tác động tiềm ẩn đến chất lượng nước và làm ô nhiễm không khí trong khu vực. Nguồn gây ra ô nhiễm nhiều nhất có thể đến từ hoạt động đào, ủi và hoạt động khác, khí thải, độ ồn từ các thiết bị. Dự án này cũng có những ảnh hưởng đến chất lượng nước tại khu vực thực hiện dự án. Hơn thế nữa dự án cũng chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết không thuận lợi như mưa, nắng nóng, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của yếu tố này đối với dự án không nhiều và không liên tục. Do vậy, theo kết qủa nghiên cứu của luận án thì mức độ ưu tiên của các


rủi ro này đối với tiến độ, chi phí và chất lượng của dự án khá thấp so với các nhóm rủi ro khác. Các vấn đề liên quan đến rủi ro môi trường được đề cập khá nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới như Flyvbjerg B [54], EC [52], Ghosh S và Jintanapakanont J [59], Hodge G A [69].

4.7. Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu rủi ro trong dự án đường sắt đô thị tại TP.HCM‌

Từ mô hình mạng ANP đã được thiết lập cũng như kết quả đánh giá mức độ ưu tiên rủi ro tổng hợp đối với các mục tiêu dự án của các nhóm rủi ro và các biến rủi ro thành phần chỉ ra rằng, các mục tiêu cũng như các nhóm RR có thể tương tác qua lại với nhau và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả dự án. Vì thế, QLRR dự án cần một cách tiếp cận đồng bộ và có hệ thống ở tất cả các giai đoạn dự án. Một số giải pháp được kiến nghị để giảm thiểu RR cho dự án đường sắt đô thị bao gồm:

Thứ nhất, kết quả chỉ ra rằng rủi ro kinh tế (RRKT) là nhóm yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả dự án. Phân tích ANP cho thấy, (i) Chậm giải ngân vốn,

(ii) sai sót trong việc xác định chi phí dự án, và (iii) Thay đổi điều kiện tính toán tổng mức đầu tư (thay đổi thuế VAT, chi phí dự phòng, tỷ giá, chi phí gián tiếp) là những yếu tố chính gia tăng RR về mặt kinh tế của dự án. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thay đổi điều kiện tính toán tổng mức đầu tư, và từ đó xác định sai chi phí toàn dự án là việc xác định phạm vi dự án không rõ ràng. Chính sự thay đổi phạm vi dự án sẽ kéo theo thay đổi thiết kế và góp phần gia tăng chi phí cho dự án. Vì vậy, để hạn chế RRKT, ban quản lý dự án và các đơn vị liên quan trước hết cần cần xác định lại phạm vi dự án một cách rõ ràng. Các đơn vị liên quan cần xem xét lại báo cáo dự án đầu tư xây dựng ĐSĐT TP.HCM ban đầu, tính toán lợi ích kinh tế xã hội của dự án một cách rõ ràng, để có thể điều chỉnh phạm vi và lựa chọn quy mô đầu tư thích hợp cho dự án. Thêm vào đó, RRKT của dự án chịu ảnh hưởng rất từ RR tỷ giá và lạm phát, gia tăng giá nguyên vật liệu. Vì thế, các bên liên quan cần tính toán lại tổng mức đầu tư có tính đến các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, tiền lương, giá cả nguyên vật liệu. Để đảm bảo việc ước lượng được chính xác, dự án có thể thuê các đơn vị tư vấn độc lập uy tín đánh giá và dự báo biến động về tỷ giá, lạm phát, giá cả nguyên vật liệu trước khi tính toán tổng mức đầu tư của dự án. Vấn đề chậm giải ngân vốn là một yếu tố quan trọng, góp phần lớn gia tăng RRKT cho dự án. Việc thay đổi chính sách của nhà

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 15/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí