học - công nghệ, các kỹ năng lao động nghề nghiệp chung và chuyên biệt cùng những yêu cầu, chuẩn mực về ý thức, thái độ nghề nghiệp nhằm hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp. Nội dung đào tạo cần được xác định, lựa chọn theo hệ thống các chuẩn kiến thức, kỹ năng phù hợp với đối tượng và mục tiêu giáo dục [64], [71].
Nội dung đào tạo được thể hiện cụ thể trong chương trình đào tạo theo các bậc học, ngành/nghề đào tạo cụ thể [80]. Chương trình giáo dục nghề nghiệp thể hiện: “Mục tiêu giáo dục nghề nghiệp, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục nghề nghiệp, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác” [53].
Lập kế hoạch dạy học:
Chương trình đào tạo được thực hiện theo các môn học, phần học hoặc các modun với quỹ thời gian và quy trình xác định toàn khoá nên cần lập kế hoạch dạy học trong đó xác định rõ các môn học, phần học hoặc các hoạt động trong khuôn khổ của chương trình, trình tự các môn học và phân phối thời gian chi tiết cho từng giai đoạn (lớp, học kỳ, năm học..v.v) [63], [90], [98].
Hướng dẫn thực hiện chương trình:
Nêu các yêu cầu về đối tượng, phạm vi thực hiện, các điều kiện tổ chức triển khai thực hiện, phương pháp dạy học các nguồn lực bảo đảm về cơ sở vật chất, tài liệu dạy - học, phương tiện, đội ngũ giáo viên. Đặc biệt hướng dẫn thực hiện chương trình cần nêu rõ các yêu cầu về tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học trong toàn bộ quá trình dạy - học và kết thúc quá trình dạy học (thi hoặc đánh giá tốt nghiệp..) [82], [83].
1.4.4. Tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo
1.4.4.1. Khái niệm về đánh giá chương trình đào tạo
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm, Mục Tiêu, Nhiệm Vụ Và Cách Thức Tổ Chức Giáo Dục Thể Chất
- Vị Trí, Sứ Mạng Của Trường Đại Học Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Thanh Hóa
- Các Cách Tiếp Cận Trong Việc Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục
- Đặc Điểm Phát Triển Tố Chất Thể Lực Của Sinh Viên
- Phương Pháp Phân Tích Và Tổng Hợp Tài Liệu
- Nghiên cứu nội dung môn giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá - 10
Xem toàn bộ 312 trang tài liệu này.
Mặc dù khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác hoàn chỉnh về đánh giá chương trình đào tạo, nhưng cũng có thể xác định một cách tiếp cận về đánh giá chương trình đào tạo sau: “đánh giá chương trình đào tạo là một quá trình thu thập các tư liệu để có thể quyết định, chấp thuận, sửa đổi hay loại bỏ chương trình đó”. Đánh giá chương trình đào tạo “là đưa ra nhận định hoặc phán xét về giá trị hoặc ý nghĩa của chương trình so với yêu cầu đào tạo đã đề ra và nhu cầu học tập, phát triển của người học trên cơ sở thu thập, xử lý và sử dụng những thông tin, dữ kiện, sự kiện, bằng chứng và lập luận của chủ thể đánh giá” [64].
Đánh giá chương trình nhằm phát hiện xem chương trình có tạo ra hay có thể tạo ra sản phẩm mong muốn hay không? Đánh giá giúp kiểm định điểm mạnh, điểm yếu của chương trình đào tạo trước khi đem ra thực hiện, hoặc để xác định hiệu quả của nó khi đã thực hiện qua một thời gian nhất định.
Tùy theo cách tiếp cận trong thiết kế chương trình đào tạo, có thể có nhiều cách quan niệm về chương trình đào tạo, tuy nhiên, mọi hoạt động đánh giá phải trả lời được hai câu hỏi sau: Chương trình đào tạo có đạt được mục tiêu đã xác định của nó hay không? Làm thế nào để cải tiến chương trình đào tạo?
Như vậy có thể hiểu đánh giá chương trình đào tạo là đưa ra nhận định hoặc phán xét về giá trị, ý nghĩa của chương trình đào tạo so với yêu cầu đào tạo đã đề ra và phương thức xác định mức độ đáp ứng của chương trình đối với các mục tiêu và chuẩn mực chất lượng đào tạo, từ đó đề ra những giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng đào tạo.
Tiêu chuẩn đánh giá chương trình đào tạo.
Trong Từ điển tiếng Việt là thuật ngữ “tiêu chuẩn” là “Điều được quy định dùng làm chuẩn để phân loại đánh giá”. Trong chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung cấp năm 2012 “Tiêu chuẩn là quy định về những nội dung cơ bản, đặc trưng thuộc mỗi lĩnh vực của tiêu chuẩn”.
Như vậy tiêu chuẩn trong đánh giá chương trình đào tạo là những quy định về những nội dung cơ bản, đặc trưng thuộc mỗi lĩnh vực để đánh giá chương trình đào tạo.
Tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo: Thuật ngữ “tiêu chí” trong Đại từ điển tiếng Việt: “Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp một loại sự vật, một khái niệm”. Trong chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung cấp năm 2012 “Tiêu chí” là yêu cầu và điều kiện cần đạt được ở một nội dung cụ thể của mỗi tiêu chuẩn [10], [15], [92].
Theo kết luận của hội nghị giữa Hội đồng GD và các Bộ trưởng Bộ GD&ĐT việc làm của Úc (9/1992), một kiến nghị về 7 năng lực then chốt của người lao động cần có, được đề ra như sau: 1) Thu thập, phân tích và tổ chức thông tin. 2) Truyền bá những tư tưởng và thông tin. 3) Kế hoạch hóa và tổ chức các hoạt động. 4) Làm việc với người khác và đồng đội. 5) Sử dụng những ý tưởng và kỹ năng toán học. 6) Giải quyết vấn đề. 7) Sử dụng công nghệ. Cuối thập kỷ 90, Hội đồng đã bổ sung thêm năng lực thứ 8, đó là năng lực cảm thụ văn hóa, nghệ thuật [105].
Như vậy, các tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo chính là tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, là yêu cầu và điều kiện cần đạt được ở một nội dung cụ thể của mỗi tiêu chuẩn. Hệ thống các tiêu chí sẽ chính là hệ thống các dấu hiệu bản chất đặc trưng thuộc mỗi lĩnh vực của chương trình đào tạo.
1.4.4.2. Đối tượng tham gia đánh giá nội dung đào tạo.
Đánh giá chương trình đào tạo là một hoạt động tập thể. Sự hợp tác này cần thiết trong toàn bộ quá trình đánh giá và bao trùm toàn bộ các hoạt động
của chương trình đào tạo, bắt đầu từ lập kế hoạch đánh giá, lựa chọn công cụ và mô hình đánh giá, đến việc thực hiện các giai đoạn trong quá trình đánh giá.
Trong hoạt động đánh giá chương trình đào tạo của một cơ sở đào tạo thì người giáo viên, người quản lý, cán bộ đánh giá chuyên trách và cả người học cùng với cha mẹ họ cần hợp tác để xác định những gì cần đánh giá trong chương trình đào tạo, họ hợp tác để thu thập và xử lý dữ liệu. Các kết luận đánh giá không phải do một người, hay một nhóm người thực hiện riêng rẽ, và cũng không đánh giá từng bộ phận của chương trình đào tạo. Thông thường chương trình đào tạo được đánh giá một cách tổng thể và là quyết định của cả tập thể những người có liên quan gồm những thành phần như sau. Người học: Với tư cách là người thụ hưởng chương trình, người học là người có trách nhiệm tham gia đánh giá không chỉ quá trình học tập của bản thân, mà còn đánh giá cả chương trình đào tạo, đánh giá phương pháp đào tạo, đánh giá giảng viên để xác định giá trị và hiệu quả của từng bộ phận cấu thành của chương trình đào tạo. Người học cần tham gia vào quá trình đánh
giá chương trình và cả việc đánh giá học tập của bản thân [30], [39], [42].
Người học có vai trò lớn hơn trong việc xác định đánh giá nào cần áp dụng để đánh giá hoạt động học tập của học sinh. Những năm gần đây, nhiều trường cho xây dựng hồ sơ học tập của từng người học bao gồm toàn bộ tài liệu liên quan đến việc học của người đó, trong đó có tất cả những đề nghị của người học nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất. Người học có quyền được tham gia đánh giá giáo viên, đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên và được đề xuất những yêu cầu.
Người dạy: Người dạy là người có vai trò quan trọng nhất trong đánh giá chương trình đào tạo. Giảng viên là người tổ chức hoạt động giảng dạy để hình thành những kiến thức, kỹ năng cho người học nên giảng viên là người
có thể biết được sự tiến bộ của người học thông qua quá trình giảng dạy và kết quả của người học đối với những phần khác nhau của chương trình đào tạo, thông qua việc so sánh các kết quả đó với các lớp khác nhau, giảng viên có thể có những đóng góp quan trọng trong quá trình đánh giá chương trình đào tạo [33], [58].
Cán bộ chuyên trách: Là những cán bộ có trình độ chuyên môn tốt, đang làm ở bộ phận phát triển chương trình đào tạo của trường. Việc này có lợi thế là cán bộ đánh giá biết hệ thống tổ chức, mục tiêu của trường, các kết luận đánh giá sẽ được chính xác hơn.
Đánh giá của Hội đồng nghiệm thu thuộc cơ sở được lựa chọn tiến hành thực nghiệm: Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa là cơ sở được lựa chọn tiến hành thực nghiệm. Ý kiến đánh giá của hội đồng nghiệm thu là điều kiện mang tính pháp lý trước khi tiến hành thực nghiệm chương trình trong thực tiễn đào tạo sinh viên.
Tư vấn: Nhiều trường hợp chương trình đào tạo được đánh giá bởi các chuyên gia bên ngoài trường. Một số nhà quản lý giáo dục cho rằng đối với các chương trình đào tạo mới cần được đánh giá từ bên ngoài, bởi nhẽ với trình độ chuyên môn giỏi lại không bị “Bệnh nghề nghiệp” chi phối, họ sẽ có những đánh giá trung thực, khách quan. Tuy nhiên, đôi khi đánh giá ngoài cũng bị coi là kẻ ngoại đạo, ngáng đường của cả quá trình đánh giá.
Đánh giá của chuyên gia về lĩnh vực giáo dục: Quá trình nghiên cứu đã tiến hành xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia, các giảng viên giảng dạy môn GDTC, các nhà quản lý thuộc lĩnh vực GDTC các nhà khoa học, cán bộ quản lý đào tạo cấp trường và cấp khoa về chương trình xây dựng mới (các chuyên gia là những người có học vị tiến sĩ, có nhiều năm làm công tác quản lý hoạt động đào tạo giáo viên và hiểu biết về lĩnh vực GDTC trường học) [64].
Mô hình đánh giá cấp chương trình đào tạo AUN: Mô hình AUN là cụm từ viết tắt của (Asean UNniversity Network) là các Trường ĐH hàng đầu khu vực Đông Nam Á là được thành lập vào tháng 11/1995 bởi sáng kiến của Hội đồng bộ trưởng các nước Đông Nam Á, các thành viên đầu tiên do Bộ trưởng bộ GD các nước đề cử. Đầu tiên mạng lưới có 11 thành viên, sau đó tăng lên 17 thành viên vào năm 1999. Tính đến ngày 31/7/2013 mạng lưới này đã có 30 thành viên đến từ 10 quốc gia, việc kết nạp thành viên mới yêu cầu phải qua đánh giá chất lượng (17 thành viên đầu tiên không cần đánh giá). Đối tượng tham gia AUN là các Trường đại học có uy tín nhất đại diện cho các quốc gia thành viên ASEAN. Mục đích nhằm thúc đẩy sự hợp tác và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, trao đổi giảng viên và sinh viên giữa các Trường ASEAN; AUN ra sáng kiến đánh giá chất lượng giáo dục đại học theo những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng chung của khu vực ASEAN. Các trường ĐH của Việt Nam gia nhập AUN, có Trường ĐHQG Hà Nội chính thức trở thành thành viên Hội đồng Quản trị của AUN từ năm 1995. Trường ĐHQG TPHCM trở thành thành viên chính thức 1999, đăng ký kiểm định chương trình chính thức 3/2008. Trường ĐH Cần Thơ trở thành thành viên chính thức của tổ chức AUN vào tháng 7 năm 2013 [97].
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý và tố chất phát triển thể lực của sinh viên Lứa tuổi sinh viên là lứa tuổi trưởng thành, là lứa tuổi bắt đầu “làm người lớn”. Các đặc điểm tâm lý, sinh lý, giải phẫu nói chung của sinh viên cũng là đặc điểm tâm lý, sinh lý, giải phẫu của người trưởng thành. Tuy nhiên, do lứa tuổi sinh viên thuộc thời kỳ đầu lứa tuổi thanh niên, nên cần phải đặc biệt chú ý và được tiếp tục Giáo dục thể chất một cách khoa học, để nâng cao thể lực, góp phần hoàn thiện các cơ quan và hệ cơ quan trong cơ thể;
làm cơ sở cho chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai [2], [14].
Do đó, việc giảng dạy động tác và giáo dục các phẩm chất thể lực cho sinh viên vừa phải tuân thủ các quy luật chung, lại vừa phải tuân thủ các quy luật đặc thù. Đặc biệt là quy luật rèn luyện kỹ năng và hình thành kỹ xảo vận động, quy luật lượng vận động, thông qua sử dụng các phương tiện, phương pháp phát triển thể chất hợp lý, khoa học, để tiến hành có hiệu quả Giáo dục thể chất, chăm sóc sức khoẻ và xây dựng nhân cách con người mới.
1.5.1. Đặc điểm tâm lý
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến sinh viên, những người có hoạt động chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của sinh viên.
Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế
mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật của phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới.
Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân sinh viên.